Thờ
cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức
đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam, là một trong các
thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
rất giản dị: tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh
hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ phù hộ cho con cháu khi gặp tai
ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp may mắn, khuyến khích cho con
cháu khi gặp điều lành và cũng quở trách con cháu khi làm những điều tội
lỗi...
Ở
nước ta, thờ cúng tổ tiên không chỉ là tín ngưỡng phổ biến ở người Việt
- tộc người đa số - mà còn lưu giữ ở một vài tộc người khác như người
Mường, người Thái... Trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, trong
khi nhiều tôn giáo, tín ngưỡng dân gian khác đã phải chịu cảnh long
đong, bị kết tội “mê tín dị đoan” nhưng tín ngưỡng thờ tổ tiên đã và vẫn
chiếm được vị trí thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt.
Ý thức “con người có tổ, có tông” được bảo tồn trong cõi tâm linh và
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, dù họ sống trên tổ quốc mình
hay lưu vong nơi xứ người. Đặc biệt đây là hình thức tín ngưỡng được các
thể chế chính trị (Nhà nước) từ xưa đến nay trân trọng thừa nhận, dù
rằng với những mức độ khác nhau. Cùng với tiến trình lịch sử của dân
tộc, nó là sự bồi lắng, kết tụ những giá trị đạo đức quý báu của con
người Việt Nam.
1. Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên xuất hiện từ khi nào? Cho đến nay có khá nhiều
các giả thuyết, nó được hình thành vào thời Bắc thuộc, cùng với những
ảnh hưởng của văn hóa Hán. Nhưng một số vấn đề được trao đổi: liệu thời
điểm ra đời có thể sớm hơn không, mối quan hệ giữa yếu tố bản địa và yếu
tố du nhập trong việc hình thành tín ngưỡng này diễn ra như thế nào?
chúng ta hãy tìm hiểu từ nền tảng văn hóa - xã hội của cộng đồng cư dân
Việt.
Cơ
sở quan trọng đầu tiên cho việc hình thành bất cứ tôn giáo tín ngưỡng
nào cũng là quan niệm tâm linh của con người về thế giới. Cũng như nhiều
dân tộc khác, người Việt xuất phát từ nhận thức “vạn vật hữu linh” -
mọi vật đều có linh hồn, và bắt đầu từ giới tự nhiên xung quanh mình. Vì
thế, loại thần cổ sơ nhất được người ta sùng là các nhiên thần, đặc
biệt là thần cây, thần núi, thần sông.... Bằng cách huyền thoại hóa, các
vị nhiên thần đã được mang khuôn mặt của con người (hiền hậu hay dữ
tợn), tâm lý của con người (vui mừng hay giận giữ). Có thể nói việc nhân
hóa các thần tự nhiên đã tạo ra một bước chuyển cho việc hình thành hệ
thống nhân hóa. Đây cũng chính là giai đoạn con người bắt đầu khám phá
về bản thân mình. Đến một thời điểm nào đó, mối quan hệ giữa cái hữu
hình và cái vô hình, nhất là cái sống và cái chết đã làm con người bận
tâm. Vẫn với quan niệm vật linh kể trên, họ tin rằng trong mỗi con người
đều có phần “hồn” và “vía”.
Không
có ý thức cao siêu về thiên đàng hay địa ngục của Kitô giáo hay thuyết
luân hồi chuyển kiếp đầu thai của đạo Phật, trong nhận thức dân gian,
thể xác và linh hồn vừa gắn bó, vừa tách biệt. Chúng gắn bó khi sống và
tách biệt khi chết, thể xác đã hòa vào cát bụi nhưng phần hồn vẫn tồn
tại chuyển sang sống ở một thế giới khác. Cõi âm ấy cũng có mọi nhu cầu
như cuộc sống dương gian. Theo quan niệm dân gian, chết cũng là một dạng
“sống”trong một môi trường khác.
Người
ta cho rằng nếu người chết không được cung cấp đầy đủ sẽ trở thành “ma
đói” lang thang, quấy nhiễu người sống. Các am chúng sinh lập ở cuối
làng, hay lễ Vu lan (rằm tháng bẩy) dành cho “thập chúng sinh” là những
biểu hiện mong muốn chia sẻ, an ủi những linh hồn bơ vơ, thiếu đói không
có người cúng tế. Một hiện tượng khá bí ẩn nhưng rất được con người tin
tưởng, đó là âm phủ, người chết phù trợ cho người sống
Mối
quan hệ giữa những người sống và những người chết cùng chung huyết
thống lại càng gắn bó hơn. Trong vòng hai, ba đời thì đó còn là những kỷ
niệm rất cụ thể và sâu sắc. Ông bà, cha mẹ dù qua đời nhưng vẫn luôn
hiện diện trong tâm tưởng của con cháu, và con cháu luôn cảm thấy trách
nhiệm cả về vật chất lẫn tinh thần đối với họ. Niềm tin vào cái chết
chẳng qua là một cuộc trở về gặp tổ tiên, ông bà và tổ tiên có thể sẽ
dõi theo, phù hộ độ trì cho con cháu, đã là cơ sở hình thành tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên.
Ở
Việt Nam, mặc dù tất cả các tộc người đều có quan niệm tổ tiên và một
số tộc người có những hình thức tôn thờ ở những mức độ khác nhau, theo
nhiều nhà nghiên cứu, các hình thức này, hoặc tục cúng người chết trong
tang lễ, cung cấp vật dụng khi chôn người chết, thờ một vài năm, hay lễ
bỏ mả... không đồng nhất với hình thức thờ cúng tổ tiên truyền thống của
người Việt (thờ cúng nối tiếp, lâu dài). Vì vậy, những nét tương đồng
của hình thức tín ngưỡng này chỉ nhận thấy rõ nhất ở một vài nước Đông
Nam Á, đặc biệt là Trung Quốc.
Xã
hội cổ truyền của người Việt cũng có những cơ sở kinh tế nhất định cho
việc hình thành và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Trước hết đó là
nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp. Đây chính là môi trường thuận lợi
cho sự xuất hiện tín ngưỡng đa thần. Xét về phương diện kinh tế, làng xã
Việt Nam
đã gần như một đơn vị độc lập và tương tự như thế, là tế bào của nó -
hộ gia đình nhỏ. Đây là nhân tố quan trọng gắn bó các thành viên của gia
đình cùng một thế hệ và giữa các thế hệ. Mở rộng ra, các gia đình cư
trú quần tụ theo họ, và nhiều họ tập hợp thành làng. Trước làng, con
người không tồn tại với tư cách cá nhân mà dưới danh nghĩa gia đình dòng
họ - những đơn vị huyết thống. Có thể nói nền kinh tế tiểu nông ấy là
mảnh đất thuận lợi cho việc củng cố và phát triển ý thức dân tộc cũng
như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng xã.
Trong khía cạnh kinh tế có một điểm quan trọng tạo nên nét khác biệt trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam và Trung Hoa. Do đặc trưng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, gió mùa nên Việt Nam
sản xuất lúa nước theo truyền thống tiểu canh kết hợp với nuôi gia súc.
Vì vậy sản xuất không đòi hỏi tập trung nhân công theo quy mô lớn như ở
nơi sản xuất lúa mỳ khô, công cụ xản xuất cũng nhỏ, gọn, nhẹ, mọi thành
viên trong gia đình từ phụ nữ, trẻ em đều sử dụng dễ dàng. Kết hợp tất
yếu của quy trình này khiến người Việt gắn bó với gia đình, thường là
gia đình hạt nhân chặt hơn với dòng họ. Hầu như gia đình nào cũng có bàn
thờ tổ tiên (dù thờ chính hay thờ vọng) nhưng không phải dòng họ nào
cũng có từ đường.
Hình
thức tổ chức xã hội cũng là một yếu tố quan trọng cho việc hình thành
tín ngưỡng. Ở giai đoạn thị tộc phụ quyền, người đàn ông bắt đầu nắm giữ
quyền hành quản lý gia đình do họ đã có vai trò quan trọng trong hoạt
động kinh tế, vợ và con cái họ tuyệt đối phục tùng và tôn trọng cái uy
quyền đã được xác lập ấy, không chỉ khi họ còn sống mà cả khi họ đã qua
đời. Những đứa con mang họ cha đã kế tiếp ý thức về uy quyền, và phải
chăng các nghi thức ma chay, cúng tế tổ tiên cũng chính là “hình thức
phản ánh hoang đường quyền hành gia trưởng trong một gia đình”.
Như
vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ra đời và duy trì trong những điều
kiện lịch sử - xã hội nhất định. Từ hình thức liên minh cộng đồng nguyên
thủy đến hình thức liên kết gia đình sơ khai theo trục huyết thống nam
đã là một chặng đường lịch sử khá dài. Theo con đường “ chung tộc danh
về phía bố”, các gia đình nhỏ liên kết lại với nhau thành họ. Đây là
loại đơn vị ngoại hôn vì các thành viên trong họ liên kết với nhau bằng
sợi dây huyết thống và cùng chung một vị thủy tổ.
Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở người Việt đã hình thành, tồn tại và phát
triển trên cơ sở quan niệm tâm linh và một nền tảng kinh tế xã hội tư
tưởng khá bền vững. Có thể nói những yếu tố tâm linh có tính bản địa và
mộc mạc đã được thể chế hóa, hợp pháp hóa nhờ hệ tư tưởng Nho giáo và sự
ủng hộ của các vương triều. Chính vì vậy, tín ngưỡng này đã được bảo
tồn qua suốt tiến trình lịch sử nhiều biến động.
2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là gì?
Tín
ngưỡng của tục thờ cúng tổ tiên là quan niệm về sự tồn tại của linh hồn
và mối liên hệ giữa người đã chết và người sống (cùng chung huyết
thống) bằng con đường hồn về chứng kiến, theo dõi hành vi của con cháu,
quở trách hoặc phù hộ cuộc sống của họ. Trong tín ngưỡng này đạo lý là
nội dung nổi trội.
Đạo
lý uống nước nhớ nguồn, một mặt con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với
các bậc sinh thành, lúc họ đã chết cũng như khi còn sống. Mặt khác, nó
cũng thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối với nhu
cầu của tổ tiên. Trách nhiệm được biểu hiện không chỉ trong các hành vi
sống (giữ gìn danh dự và tiếp tục truyền thống của gia đình, dòng họ,
đất nước) mà còn ở trong các hành vi cúng tế cụ thể. Một học giả nước
ngoài khi nghiên cứu về tín ngưỡng này ở nước ta đã nhận xét: “Các thành
viên trong gia đình kính dâng các đồ cúng lễ là tuyệt đối cần thiết để
cho linh hồn tổ tiên có được sự yên nghỉ thanh thản ở thế giới bên kia”.
Ở
đây cũng cần nhắc tới đặc trưng “duy tình” hơn “duy lý” của người Việt.
Mặc dù nhiều dân tộc phương Đông có tâm lý ứng xử duy tình, nhưng ở
người Việt, thái độ này biểu hiện rất rộng và thể hiện rất sâu sắc (
không chỉ đối với người đang sống mà cả với những người sắp chào đời
hoặc đã chết). Người ta luôn luôn chịu sự chi phối của quan niệm vừa
mong được nhận “phúc ấm của tổ tiên”, “sống vì mồ mả, ai sống vì bát
cơm”, vừa lo trách nhiệm để phúc lộc cho con cháu “phúc đức tại mẫu”,
“đời cha ăn mặn đời con khát nước”. Khi cúng lễ tổ tiên, một mặt con
người hướng về quá khứ, định hướng cho hiện tại (giáo dục truyền thống
gia đình, đạo lý làm người cho con cháu) và mặt khác đã chuẩn bị cho
tương lai. Đường dây thế hệ mà cũng là đường dây đạo lý sẽ luôn liên tục
nối tiếp, phát triển.
Thờ
cúng tổ tiên còn là hình thái tín ngưỡng có ý nghĩa lớn về mặt tổ chức
cộng đồng trong xã hội truyền thống. Sống trong xã hội, xét theo cả trục
dọc và trục ngang, con người không thể sống biệt lập, đơn độc. Theo
trục dọc phụ hệ, thờ cúng tổ tiên là sự nối tiếp liên tục các thế hệ:
ông bà - cha mẹ - bản thân. Mỗi con người phải có trách nhiệm thờ phụng
bốn đời trước: cao, tằng, tổ, khảo (kỵ, cụ, ông, bố) và họ cũng tin rằng
sẽ được con cháu bốn đời kế tiếp cúng giỗ. Theo trục ngang, thờ cúng tổ
tiên đã gắn bó con người trong mối liên kết dòng họ: họ cha, họ mẹ, họ
vợ (hoặc chồng). Với tư cách một tập thể - gồm cả người đang sống và
người đã chết gắn bó với nhau về huyết thống và thờ chung một thủy tổ,
dòng họ có sức mạnh đảm bảo giá trị tinh thần cho mỗi thành viên của nó
trong làng xã
Vai
trò tổ chức liên kết cộng đồng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn rõ
hơn khi ta xem xét vấn đề thờ quốc tổ. Cả cộng đồng cư dân Việt Nam được
củng cố bởi niềm tin chung một cội nguồn “đồng bào”, đều là “con Lạc
cháu Hồng”. Và đó cũng chính là sức mạnh giúp cho dân tộc ta vững vàng
trước mọi sự đe dọa của giặc ngoại xâm “các vua Hùng đã có công dựng
nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”.(Hồ Chủ Tịch). Suốt từ thế kỷ
XV, XVI đến nay, khi Hùng Vương được coi là quốc tổ, ý thức này đã đóng
một vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống tâm linh của dân tộc.
Thờ 18 vị Vua Hùng theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên có nội dung bình dị và giàu tính thực tiễn,
không cực đoan như nhiều tôn giáo khác. Bởi thế nó dễ dàng được thế tục
hóa trở thành nếp sống, phong tục, bám rễ sâu trong tiềm thức của mỗi
người. Bằng việc thờ cúng tổ tiên, thế hệ trước nêu gương cho thế hệ sau
không chỉ vì trách nhiệm đối với các bậc sinh thành mà còn để giáo dục
dạy dỗ con cháu lưu truyền nòi giống. Giáo sư Đào Duy Anh cho rằng: “tế
tự tổ tiên là lấy sự duy trì chủng tộc làm mục đích”. Trong khi tế lễ,
lời khấn vái của họ cũng thật giản dị, rất thực tiễn: lời cầu xin che
chở, phù trợ cho cuộc sống hàng ngày của họ được bình yên, suôn sẻ.
Không biết sự cầu xin ấy hiệu quả như thế nào, nhưng trước hết, con
người cảm thấy thanh thản về mặt tâm linh, điểm tựa tinh thần quan trọng
cho cuộc sống. Trong sự thờ cúng này đã thực sự nảy sinh mối quan hệ
hai chiều: người chết cần đến sự cúng lễ của người sống để có thể yên ổn
ở thế giới bên kia, không thành “ma đói” lang thang, còn người sống chỉ
có thể an bình, thanh thản khi được che chở, phù trợ một cách bí ẩn của
người chết. Linh hồn các bậc tiền bối luôn luôn bên cạnh con cháu, mách
bảo cho họ và giúp đỡ họ có một cuộc sống tốt đẹp thuận hòa. Với những
mong muốn bình dị và niềm tin nguyên thủy chất phát, thờ tổ tiên được
coi là thứ tín ngưỡng “vừa tầm” với mọi lớp người cả về mặt nội dung đạo
lý và nghi thức thực hiện. Do đó, khả năng phổ biến trong không gian và
thời gian của tín ngưỡng này cũng là một điều dễ hiểu.
Các tôn giáo ngoại lai, để tồn tại được ở Việt Nam,
đã buộc phải dung hòa với thứ tín ngưỡng bản địa cắm rễ sâu trong tâm
thức người Việt – thờ cúng tổ tiên. Còn các tôn giáo xuất hiện nội sinh
trong nước như Cao Đài, Hòa Hảo ở miền Nam
cũng đã biết dựa trên cơ sở của đạo thờ cúng ông bà. Không chỉ các tôn
giáo, mà ngay cả trong các tín ngưỡng dân gian khác như tín ngưỡng thờ
thành hoàng, thờ Mẫu…, ta cũng thấy dấu vết tác động của tín ngưỡng thờ
tổ tiên ở sự biết ơn cội nguồn, biết ơn các đấng sinh thành. Bắt nguồn
từ tín ngưỡng thờ thần, người dân Việt thờ Mẫu (thờ mẹ) với mong muốn
kéo vị thần này gần với tín ngưỡng gia tộc, từ đó có mối đồng cảm gắn bó
như giữa người mẹ luôn che chở với đàn con của mình.
Có
thể nói, thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng dân gian của dân tộc có
nguồn gốc từ xa xưa và mang đạo lý nhân ái uống nước nhớ nguồn trong
tiến trình lịch sử, nó đã được các hệ tư tưởng tôn giáo khác bổ sung
hoàn chỉnh để thể chế hóa thành một thứ đạo: Đạo tổ tiên - Đạo Ông Bà.
3. Nghi thức thờ cúng tổ tiên
Tổ tiên theo quan niệm của người Việt Nam,
trước hết là những người cùng huyết thống, như cha, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ
v.v... là người đã sinh ra mình. Tổ tiên cũng là những người có công
tạo dựng nên cuộc sống hiện tại như các vị "Thành hoàng làng" các "Nghệ
tổ". Không chỉ thế, tổ tiên còn là những người có công bảo vệ làng xóm,
quê hương, đất nước khỏi nạn ngoại xâm như Trần Hưng Đạo đã thành "Cha"
được tổ chức cúng, giỗ vào tháng 8 âm lịch hàng năm. "Tháng 8 giỗ cha" ở
rất nhiều nơi trong cộng đồng người Việt. Ngay cả "Thành hoàng" của
nhiều làng cũng không phải là người đã có công tạo dựng nên làng, mà có
khi là người có công, có đức với nước được các cụ xa xưa tôn thờ làm
"thành hoàng". Tổ tiên trong tín ngưỡng của người Việt Nam còn là "Mẹ Âu
Cơ", còn là "Vua Hùng", là người sinh ra các dân tộc trong đại gia đình
Việt Nam.
Sự biết ơn và tưởng nhớ công lao là thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn" đối với tổ tiên.
Ảnh du khách đến dâng hương tại Đền Hùng
Thờ
cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mà thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm
xác lập "mối liên hệ" giữa người sống với người chết, giữa người ở thế
giới hiện tại và thế giới tâm linh. Là sự thể hiện quan niệm về nhân
sinh của người Việt Nam: "sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn". Với người Việt Nam,
chết chưa phải là hết, tổ tiên lúc nào cũng ở bên cạnh người sống, "như
tại" trên bàn thờ mỗi gia đình, động viên, trợ giúp cho con cháu trong
cuộc sống thường ngày. Nếu như tôn giáo thường tuyệt đối hóa đời sống
tinh thần, hướng con người về thế giới siêu thoát, thì tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên, tuy có hướng con người về với quá khứ, song lại rất coi
trọng hiện tại và tương lai.
Đạo
lý biết ơn và tiếp tục nối dõi truyền thống tổ tiên chỉ trở thành nội
dung bên trong của tín ngưỡng khi đạo lý được bộc lộ thông qua các nghi
thức có tính chất huyền bí, thiêng liêng. Các nghi thức thờ cúng tổ tiên
ở nước ta tuy phần lớn phỏng theo nghi lễ Nho giáo, nhưng lại có những
yếu tố rất gần gũi với Phật giáo hay Đạo giáo. Mặt khác với tính chất
một tín ngưỡng dân dã, các hành vi lễ thức thường được thực hiện theo
tâm thức dân gian và cũng không hoàn toàn thống nhất ở các gia đình, các
địa phương.
Thời
gian cúng giỗ là những ngày húy kỵ của tổ tiên, những ngày lễ, tết
trong năm. Ngoài ra, việc cúng giỗ tổ tiên cũng được tổ chức vào những
ngày trong gia đình có sự kiện quan trọng như lấy vợ, làm nhà, tậu trâu,
thi cử, đi xa, nhà có người ốm đau... Thông qua nghi lễ thờ cúng, người
Việt Nam
gửi gắm tình cảm biết ơn đối với tổ tiên. "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" và
vì "Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông
sâu". Trong mỗi gia đình tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dần dần trở thành
đạo lý "uống nước nhớ nguồn", thành "đạo hiếu". Đạo hiếu là cái gốc của
mỗi con người. Công cha, nghĩa mẹ như núi cao, nước nguồn cho nên phải
hiếu thảo với cha, mẹ khi còn sống, thành kính, biết ơn, tiếc thương khi
cha, mẹ khuất núi về với tổ tiên. Lòng hiếu thảo là giá trị đạo đức quý
báu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam.
Thờ cúng tổ tiên trong gia đình và gia tộc
Mang
đặc tính của cư dân nông nghiệp đa thần giáo, trong gia đình người ta
thường thờ phụng nhiều vị thần. Bên cạnh việc thờ tổ tiên, thờ Phật,
người ta còn thờ bà Cô, ông Mãnh (ông Hoàng) là những người thân thích,
chết trẻ, hoặc chết vào giờ linh thiêng. Ở một số gia đình, vị trí bàn
thờ được sắp xếp theo quy định, ví dụ thờ Thánh sư ở góc nhà, thờ Tiền
chủ ở bàn thờ đặt ngoài sân, thờ bà Cô, ông Mãnh ở cạnh thấp hơn bàn thờ
tổ tiên.... Trong các vị thần được thờ tại gia, thường không có vị thần
nào được sắp xếp ngang hàng với tổ tiên. Thông thường ban thờ được đặt
cao ở vị trí trang trọng nhất, gian chính giữa của nhà trên. Đây là điểm
khác biệt với một số dân tộc khác ở Đông Á. Ở Hàn Quốc người ta chỉ lập
bàn thờ và dán bài khi có việc cúng giỗ, ở Nhật Bản, vị trí trang trọng
nhất trong nhà dành thờ Thần đạo (Shinto) còn ban thờ tổ tiên lại lập ở
gian phụ.
Bàn thờ gia tiên được đặt ở vị trí trang trọng trong nhà
Việc
bài trí bàn thờ gia tiên thường không giống nhau, điều này phụ thuộc
vào quan niệm tâm linh và cả điều kiện kinh tế của gia chủ. Nhìn chung
bàn thờ gia tiên nào cũng có một số đồ thờ chủ yếu sau: bài vị, bát
hương, đĩa đèn, bình hoa, chén rượu, mâm đựng hoa quả…. Các gia đình
bình dân, đồ thờ thường được làm bằng gỗ hoặc sành sứ, còn các gia đình
giàu có thế nào cũng có đồ thờ tự bằng đồng. Bàn thờ gia tiên của ngành
trưởng phức tạp hơn ngành thứ, của chi trưởng phức tạp hơn chi thứ, gia
đình con thứ, con út chỉ thờ vọng nên bài trí bàn thờ cũng đơn giản hơn
con trưởng.
Với
trách nhiệm thờ phụng nhiều đời: cao, tằng, tổ, khảo, bàn thờ các gia
đình chi trưởng, ngành trưởng có đặt các tấm thần chủ được làm bằng gỗ
táo (với ý nghĩa cây táo sống nghìn năm) ghi rõ tên tuổi các vị tổ. Trên
bàn thờ ở các từ đường dòng họ còn có bài vị Thủy tổ của họ, bài vị có
sự chuyển dịch. Khi thờ cúng đến đời thứ năm thì thần chủ của đời này
được đem chôn, vì thế mới có câu “Ngũ đại mai thần chủ”. Các thần chủ
đời sau được chuyển lên bậc trên, và tấm thần chủ của ông mới nhất được
thay vào vị trí “khảo”. Như vậy, các gia đình chi thứ, ngành thứ, các vị
tổ đời thứ tư, thứ ba chỉ được thờ vọng, mà chủ yếu thờ hai đời gần
nhất (ông bà, cha mẹ).
Việc
thờ cúng tổ tiên tại gia đình thường được tiến hành quanh năm, xuất
phát từ quan niệm dù đã khuất nhưng linh hồn họ vẫn luôn ở bên cạnh con
cháu. Không chỉ cúng lễ trong các dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp,
cưới xin…, không chỉ trong những ngày lễ tiết như Tết nguyên đán, Thanh
minh, Hàn thực, Đoan ngọ…, các ngày Sóc(ngày mồng một), Vọng (ngày rằm)
theo chu kỳ tuần trăng, mà các vị tổ tiên còn được con cháu kính cáo mọi
chuyện vui buồn: sinh nở, ốm đau, thi cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hòa,
dựng vợ gả chồng… Con cháu còn kính mời các vị về hưởng thụ hoa trái đầu
mùa, lễ tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc. Có thể nói trong tâm thức những
người sống tổ tiên là bất tử. Người Việt dâng hương, làm lễ cúng tổ
tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc
thành công. Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là từ niềm tin
người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ
nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ tiên thì che chở,
dẫn dắt hậu thế nên việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa cõi
dương và cõi âm.
Đồ
lễ trên bàn thờ cũng không quy định chặt chẽ lắm, tùy tâm nhưng điều cơ
bản phải là những thứ thanh khiết và được dành riêng. Bàn thờ tổ tiên
bao giờ cũng đặt ở trên cao, tại nơi trang trọng nhất trong nhà (gian
giữa đối với nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà tầng). Trên bàn
thờ bày bát hương, chân đèn, bài vị hay hình ảnh người quá cố.Bàn thờ
được coi là những dấu vết còn lại của tín ngưỡng thờ mặt trời và thần
lửa. Chén nước trắng tinh khiết cũng được giải mã từ tục thờ thần nước
xa xưa. Có thể một triết lý quen thuộc của phương Đông cũng đã xuất hiện
ở đây: sự giao hòa âm dương. Bên cạnh chén nước, bình rượu (âm) cần đến
sự có mặt của hương lửa (dương). Cũng như khi hóa vàng (đốt mã), người
ta cho rằng phải đổ chén rượu hoặc nước lên đống tro thì người âm mới
nhận được lễ. Theo quan niệm dân dã, nén hương là chiếc cầu nối giữa tổ
tiên và con cháu, nó có khả năng chuyển tải lời thỉnh cầu của những
người sống và chính mùi thơm thanh cao của hương, hoa đã tạo ra được sự
giao hòa giữa người hai cõi.
Mâm ngũ quả và bánh trưng ngày tết thờ cúng tổ tiên (ảnh minh họa)
Sau
khi cúng giỗ, gia đình thường dọn thức ăn vừa cúng xong để cùng ăn, coi
như hưởng lộc của tiền nhân. Bạn bè thân thuộc cũng được mời đến dùng
bữa, tức là đi ăn giỗ.
Lễ
thức trong tang ma được coi là lễ thức quan trọng bậc nhất để đưa ông
bà, cha mẹ vừa mất về gặp tổ tiên và gia nhập vào hàng các vị tổ tiên
(những người vừa mới mất được lập bàn thờ riêng cho tới khi giỗ hết, cải
táng sạch sẽ mới được phép thờ chung với tổ tiên. Sau lễ tang ma, lễ
giỗ là nghi thức rất được chú trọng trong tâm lý người Việt.
Một biến thể của việc cúng giỗ là tục thờ "hậu" do nhà chùa hay đình
làng đảm nhiệm. Trong trường hợp này người quá cố đã cúng tiền hay
ruộng vào chùa hay đình để được hưởng lễ vật vào những ngày kỵ nhật.
Vì kính trọng tổ tiên, người Việt coi việc tang ma là trọng sự, gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên.
Ngày
giỗ (kỵ nhật) là ngày kỷ niệm ngày mất của người thân trong gia đình
hàng năm thường được tính theo âm lịch (hay còn gọi là ngày ta). Trong
các ngày giỗ có ba ngày chú ý nhất: tiểu tường (giỗ đầu), đại tường (giỗ
hết), trừ phục (lễ cởi bỏ đồ tang). Các ngày giỗ thường kỳ trong các
năm sau được coi là cát kỵ (giỗ lành).
Trước
lễ Tiểu tường, nhiều gia đình còn làm lễ Tiên thường (cáo giỗ) nhằm xin
phép Thổ công để linh hồn người đã mất trở về gia đình nhận giỗ. Đồ lễ
cúng trong giỗ đầu và giỗ hết phải chuẩn bị rất chu đáo. Theo quy định
xưa, vào ngày giỗ đầu, trang phục tang lễ mũ gậy, áo xô lại được con
cháu mang ra mặc. Đồ mã được gửi cho người chết cũng theo quy định: ở lễ
tiểu đường đó là “mã biếu” vì người chết phải sử dụng để biếu các ác
thần mong tránh sự quấy nhiễu (dân gian quan niệm cõi âm như cõi trần), ở
lễ Đại tường và lễ Trừ phục (một ngày tốt được chọn sau lễ Đại tường để
đốt bỏ tang phục) đồ mã còn cần nhiều hơn: mọi vật dụng sinh hoạt cho
người chết ( quần áo, giầy dép, xe cộ), thậm chí cả các hình nhân bằng
giấy để xuống cõi âm phục vụ cho họ. Sau khi hóa (đốt) những đồ mã này,
đổ một chén rượu lên đống tàn vàng để vật mã trở thành vật thật, tiền
thật dưới cõi âm. Người ta còn hơ một chiếc đòn gánh, gậy trên ngọn lửa
hóa vàng, hoặc dựng một cây mía bên cạnh với lời giải thích “để các cụ
gánh vác về”.
Gia
tộc cũng có những qui định tín ngưỡng cho việc thờ cúng Thủy tổ dòng
họ. Mặc dù đã qua nhiều đời nhưng ngày giỗ họ vẫn được lưu truyền nhờ
việc ghi chép gia phả. Trong ngày giỗ Thủy tổ, tất cả con cháu trưởng
các chi, ngành, nhánh buộc phải có mặt. Các con cháu khác tùy vào hoàn
cảnh mà mang đồ tới góp giỗ. Lễ giỗ Tổ được tổ chức chu đáo và duy trì
đều đặn hàng năm.
Bên
cạnh các nghi lễ cúng tế trong gia đình và gia tộc còn phải kể thêm vào
hệ thống nghi thức tế lễ tổ tiên một hình thức Tảo mộ. Ngoài việc đắp
thêm mộ trong ba ngày (sau khi người thân chết), các gia đình, dòng họ
thường đi thăm mộ, cúng tế sửa sang mồ mả vào dịp Tết Thanh minh tháng
ba. Việc cúng tế tại mộ thường diễn ra đơn giản hơn nhiều so với cúng
tại nhà, nhưng trước khi cúng trước mộ người thân người ta phải khấn cáo
xin phép thổ công. Thăm nom sang sửa mồ mả tổ tiên, một mặt là hình
thức thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu, mặt khác bởi quan niệm mồ mả
vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của cả gia đình, gia tộc. Người
Việt cho rằng, nếu vị trí đặt mồ mả không tốt, hướng không đúng thì con
cháu làm ăn sẽ lụi bại, không thể nào phát triển được.
Lễ giỗ tổ Hùng vương
Nghi
thức tế tự của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên gồm ba bộ phận, thứ nhất là
tế tự tại gia đình, thứ hai tế tự tại làng xóm (chủ yếu là tín ngưỡng
thờ Thành hoàng) và thứ ba tế tự quốc gia. Người Việt luôn tôn thờ công
đức của cha ông, tộc họ, những người đã khuất cùng huyết thống, đồng
thời tôn thờ tất cả những người có công với nước, với xóm làng, những
anh hùng dân tộc, anh hùng văn hóa. Cũng trong hệ thống ấy, với người
Việt Nam tự bao đời nay ngày giỗ tổ Hùng vương luôn được coi trọng, đó
là sự tưởng nhớ, là sự trở về với cội nguồn của dân tộc. Từ truyền
thuyết bào thai trăm trứng đến sự tích Hùng Vương, người Việt đã dựng
lên cho ông Tổ của mình một lý lịch hoàn chỉnh, có cả ngày mất (kỵ).
Theo Toan Ánh, “trước đây hàng năm tại đền vua Hùng ở làng Cổ tích, phủ
Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, có tổ chức quốc tế và có đại diện của triều đình
tới đứng chủ tế trong ngày giỗ. Dân chúng các nơi kéo về đền Hùng lễ tổ
và ngay cả các tỉnh cũng có tế vọng vua Hùng”. Vì thế, đó là ngày giỗ
quan trọng nhất của người Việt Nam:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba
Lễ giỗ tổ Hùng Vương tại Đền Hùng năm 2010
Mùng
Mười tháng Ba hàng năm đã trở thành ngày giỗ của vua Hùng, thành ngày
hội tụ con cháu khắp mọi miền đất nước hướng về đất Tổ. Có thể nói ngày
giỗ tổ Hùng Vương là sự phát triển cao có tính chất trìu tượng hóa ý
thức về cội nguồn, bắt rễ sâu xa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng xã,
trong gia đình và gia tộc. Triết lý cội nguồn trên phạm vi quốc gia ấy
cũng đã đóng góp một phần quan trọng trong việc củng cố về mặt lý luận
cho sự liên kết các quan hệ máu mủ thân tộc. Nhà và nước, nước và nhà,
nước mất thì nhà tan, nước giàu thì dân mạnh. Chính vì thế tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam từ gia đình, dòng họ đến Tổ quốc đã
không ngừng được giữ gìn bảo tồn qua các bước thăng trầm của lịch sử,
bất chấp mọi mưu đồ, xâm lược đồng hóa của giặc ngoại xâm.
Trong
các hệ thống tín ngưỡng tôn giáo bản địa của nước ta thì tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên được coi là quan trọng bậc nhất. Ở đó ta thấy được niềm
tin của con người vào một thế giới bên kia, nơi có một cuộc sống giống
như thế giới mà chúng ta đang sống. Thông qua các nghi lễ thờ cúng con
người mong muốn có được sự che trở, giúp đỡ của tổ tiên, lúc nào trong
tâm tưởng họ tổ tiên cũng luôn theo sát. Chính niềm tin đó đã giúp họ
sống tốt hơn, có thể vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, đồng thời
cũng giúp mọi người xích lại gần nhau hơn. Mỗi dịp giỗ chạp là lúc những
người trong gia đình dòng họ có điều kiện để gặp gỡ thăm hỏi nhau, tạo
thêm sự thân thiết đoàn kết, gắn bó.
Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam trong quá trình hình thành,
tồn tại của nó đã góp phần tạo ra những giá trị đạo đức truyền thống như
lòng hiếu thảo, lòng nhân ái, tính cộng đồng, tính cần cù, sáng tạo,
lòng hiếu học, lòng yêu nước. Vì thế tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như đã
khái quát trên có thể nói là vĩnh hằng cùng với sự tồn tại và phát triển
của dân tộc. Hiếu với tổ tiên, ông, bà, cha, mẹ còn được nâng lên cao
hơn, đẹp hơn, đó là "hiếu với dân, với nước". Trong đời sống xã hội hiện
đại, đã có thời kỳ người ta nghĩ đơn giản rằng xã hội càng phát triển,
khoa học kỹ thuật càng tiến bộ thì con người càng bớt đi niềm tin vào
thế giới vô hình, con người sẽ sống tỉnh táo hơn, khoa học hơn. Có lẽ
điều này chỉ đúng một phần, vì thế khi thế giới càng chia nhỏ rành mạch,
con người càng mở rộng tầm nhìn thì những khoảng trống, những điều chưa
thể giải thích càng lớn. Đó là điều bí ẩn của thế giới tâm linh, đặc
biệt là mối liên hệ ràng buộc vô hình nào đó giữa những người cùng dòng
máu. Vì thế càng ngày tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên càng có vai trò quan
trọng trong đời sống tâm linh của mỗi người Việt Nam,
nó là một trong những nhân tố góp phần quan trọng để bảo tồn và duy trì
văn hóa truyền thống. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tập tục mang
đậm nét văn hoá của người Việt.
Tài liệu tham khảo
1. Trương Thìn, Nghi lễ thờ cúng tổ tiên đền chùa miếu phủ, Nxb Hà Nội
2. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh
3. Linh mục Vũ Kim Chính, SJ Giáo sư Đại học Công giáo Phụ nhân, Đài loan, Ông bà tổ tiên
Đinh Kiều Nga
http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/1426/Tin_nguong_tho_cung_to_tien_ban_sac_van_hoa_cua_nguoi_Viet