Sẽ là một thực tế khi có ai đó đặt câu hỏi trở thành Phật tử (gồm cả tại
gia và xuất gia nhưng ở đây dùng cho người Phật tử tại gia) sẽ được gì hay nói
cách khác là có lợi ích gì? Thế nhưng, có lẽ ít ai đặt câu hỏi ấy trực tiếp hay
gián tiếp trong quá trình trở thành Phật tử, thậm chí trước hay sau khi trở
thành Phật tử bởi dường như Phật tử nào ít nhiều đều hiểu giá trị đạt được khi
là Phật tử. Lại nữa, cũng sẽ là thiết thực hơn nếu có ai hỏi rằng Phật tử phải
làm gì để được lợi ích? Hai vấn đề quyền lợi (lợi ích) và trách nhiệm (bổn phận)
luôn song hành và có tác động lẫn nhau. Hỏi lợi ích tức bao gồm bổn phận.
Được gì hay lợi ích ở đây có thể được hiểu ở hai khía cạnh là quả - phước
báu hay sự an lạc mà cao tột là giác ngộ, giải thoát do thực hành giáo pháp và
quả - phần thưởng khích lệ bằng vật chất hay tinh thần do tổ chức Phật giáo hay
chùa chiền nơi vị ấy sinh hoạt ban tặng. Trong khi khía cạnh một là mục tiêu
hàng đầu bất cứ Phật tử nào cũng cầu mong và phấn đấu để đạt được nhưng ít người
đạt được hay đạt được mà chưa cảm nhận hay chưa thỏa mãn về nó, thì khía cạnh
thứ hai lại rất dễ dàng cho tất cả mọi người thấy được. Rõ ràng lợi ích luôn có
thật nhưng làm cách nào để có thể nhận được nó một cách xứng đáng lại là vấn đề
mỗi người Phật tử cần phải suy nghĩ.
Trước hết, chúng ta hãy tạm chấp nhận khái niệm Phật tử qua hai quan điểm.
Thứ nhất, Phật tử chính thức tức là những người đã quy y (nương tựa) Tam bảo và
phát nguyện thực hành năm giới (năm điều đạo đức Phật giáo). Thứ hai, Phật tử tự
nhận tức là những người không quy y Tam bảo nhưng thực hành lời dạy của đức Phật
như hành thiền, tụng kinh, v.v…(nói cho đúng thì họ đã quy y Nhị bảo vì họ
nương vào giáo pháp do đức Phật dạy mà thực hành).
Theo truyền thống Phật giáo, một người trở thành Phật tử chính thức khi
vị ấy lập lại ba lần trước vị thầy rằng: ‘con xin quy y Phật/Bụt, con xin quy y
Pháp, con xin quy y Tăng’ trừ trường hợp hai vị Phật tử đầu tiên tên Tapassu va
Bhallika chỉ quy y Phật và Pháp (vì lúc ấy chưa thành lập Tăng già). Nghi thức
này cũng ví như nghi thức nhập môn của các tín đồ các tôn giáo khác. Sau khi đã
quy y Tam bảo xong, vị ấy sẽ được giảng giải về năm giới và được khuyến khích
phát nguyện thực hành càng nhiều càng tốt năm giới ấy.
Thật là ngạc nhiên khi không có điều luật nào trong Phật giáo bắt buộc
người đã quy y phải tuân thủ thực hành đầy đủ năm giới. Nói cách khác, không có
điều luật nào trong Phật giáo quy định nếu không giữ đủ năm giới thì sẽ không
được công nhận là Phật tử hay có hình thức kỷ luật tương xứng. Như vậy, trở
thành Phật tử là một sự tự nguyện tích cực sau khi nhận thấy được giá trị thiết
thực của chánh pháp. Do đó, quy y là nền tảng đầu tiên và cũng là con đường phải
nương tựa suốt cuộc đời của người Phật tử thực hành chánh pháp. Lợi ích cao quý
nhất tất yếu có được sẽ bắt đầu từ nền tảng ấy.
Lợi ích theo khía cạnh một:
Ngược thời gian trở về thời đức Phật, chúng ta biết được câu chuyện hai
vị cư sĩ cúng dường đức Phật ngay sau khi Ngài chứng ngộ đạo giải thoát và cầu
xin Phật để được quy y Ngài và giáo pháp; hay chuyện chàng cư sĩ Thiện Sinh xin
quy y Tam bảo sau khi được đức Phật giảng dạy về ý nghĩa lễ lạy sáu phương và
các điều đạo đức có thể đưa đến an lạc, hạnh phúc đời này và đời sau nếu được
thực hành. Tại sao họ lại quy y và họ đã đạt được điều gì? Rất dễ dàng nhận ra
là họ bị thuyết phục bởi năng lực phi thường cũng như trí tuệ siêu phàm của đức
Phật và lợi ích mà họ có được là phước báu do cúng dường và sự hiểu biết phương
cách đưa đến hạnh phúc đời này và đời sau.
Trải qua hơn 2500 năm lịch sử, số người tìm đến quy y do kính trọng Tam
bảo cũng có, mà do niềm tin sẽ được Phật gia hộ bình an, khỏi đọa tam đồ, siêu
sanh cõi lành cũng không thiếu. Quy y do kính trọng Tam bảo diễn ra khi vị ấy
thấy được tấm gương vĩ đại của đức Phật và kính phục xin noi theo Ngài; khi vị ấy
hiểu được giá trị thiết thực của giáo pháp là có thể đem đến an lạc, hạnh phúc
hiện tại và tương lai; và khi vị ấy chứng kiến sự an lạc thật sự của tăng đoàn
và tin tưởng khả năng hướng dẫn của họ. Sau khi quy y chính thức hay không
chính thức, người Phật tử tiếp tục học hỏi và không ngừng hành trì chánh pháp
thông qua sự hướng dẫn của tăng đoàn và sự soi sáng từ những đức tính của đức
Phật. Những người theo con đường này hiện có mặt khắp Đông Tây và lợi ích thiết
thực mà họ nhận được biểu hiện qua đời sống an lạc hằng ngày của họ. Mối quan hệ
tương duyên nhân - quy y, hành trì chánh pháp và quả - sự an lạc được chứng
minh rõ ràng qua nỗ lực tự thân của họ.
Ngược lại, quy y do niềm tin sẽ được Phật gia hộ và sẽ được phước báu
vãng sanh cõi lành phần lớn dựa vào niềm tin và tha lực. Đa số Phật tử hiện nay
đi theo con đường này. Họ quy y bởi họ tin rằng đức Phật là bậc cao tột có năng
lực vượt hẳn tất cả các thần linh và luôn từ bi ban phước và gia hộ; tin rằng
chánh pháp là điều nhiệm mầu có thể làm tăng phước báu và sự linh thiêng khi
trì tụng; và tin rằng tăng đoàn có thể giúp họ đạt được ý nguyện nhờ phước đức
của Tăng và các nghi lễ cầu nguyện mà họ thực hiện. Lợi ích trong trường hợp
này là không thể xác định cụ thể vì nó còn phụ thuộc vào chánh nhân mà họ thực
hiện. Tùy theo chánh nhân có tu tập hành trì, hoặc chỉ dừng lại ở niềm tin và cầu
nguyện hay thậm chí không theo chánh pháp mà kết quả sẽ đến tương xứng. Những
người thuộc nhóm này thường dễ dao động bởi các yếu tố linh thiêng mầu nhiệm và
huyền bí siêu hình. Tuy nhiên, điều đáng ghi nhận là nhờ đức tin vào sự phù hộ
của đức Phật và chư vị Bồ tát mà nhiều người tìm đến đạo Phật và phát tâm làm
việc thiện.
Lợi ích theo khía cạnh hai:
Khi chưa phải thánh nhân sống đời tự tại, thoát vòng đối đãi, thì yếu tố
ngoại duyên mang tính khích lệ tinh thần tu học của người Phật tử rất cần được
chú trọng. Sự khen tặng bằng món quà tinh thần hay sự giúp đỡ bằng phương tiện
vật chất cho những Phật tử trong các trường hợp như tinh tấn tu tập, có nhiều
đóng góp, gặp hoàn cảnh thiếu thốn là điều không quá khó khăn để thực hiện. Ta
hãy tìm hiểu, xưa và nay, sự quan tâm như thế được thể hiện như thế nào trong
Phật giáo?
Có thể nói Phật giáo là một tôn giáo không có chủ trương phát triển tín
đồ, đặt biệt là không thấy đề cập vai trò và bổn phận truyền bá chánh pháp của
người Phật tử. Trong khi mỗi tín đồ của các tôn giáo lớn khác dù là tu sĩ hay
thế tục đều có bổn phận bắt buộc phải là nhà truyền giáo, thì Phật giáo chỉ thấy
đề cập vai trò và bổn phận này đối với người xuất gia ngay sau khi Tăng đoàn được
thành lập. Phải chăng đức Phật không xác nhận vai trò này đối với người cư sĩ
hay vì Phật chưa nói vì nhân duyên chưa đủ? Phải chăng Phật tử chỉ làm công việc
“thiền môn hưng thịnh do đàn việt pháp tâm” như chư tăng ni thường lập lại
trong các lễ trai tăng cúng dường? Sự thờ ơ của cư sĩ trước sự tăng giảm tín đồ
Phật giáo, có thể nói, là hậu quả của việc độc quyền vai trò truyền bá chánh
pháp. Sự thật có đúng như vậy không và lợi ích nào dành cho họ trong trường hợp
này?
Đọc trong kinh sử Phật giáo, ta thấy rằng, mặc dù đức Phật không giao
phó bổn phận truyền bá chánh pháp cho hàng tại gia nhưng Phật cũng không phủ nhận
vai trò của họ đối với công việc này. Nữ cư sĩ Visakha khéo léo đưa cả gia đình
nhà chồng theo Phật giáo, bác sĩ Jivaka khéo đưa vua A-xà-thế đến với đức Phật
sau khi vua đã phạm tội lớn, v.v… là những ví dụ cho thấy Phật tử tại gia đóng
vai trò quan trọng, trực tiếp trong việc phổ biến đạo Phật và làm tăng thêm bạn
tu. Lợi ích họ có được trong trường hợp này là được Phật tán thán và tất nhiên
là tăng trưởng phước báu theo đúng tinh thần nhân quả. Như vậy, ngay thời Phật
tại thế, lợi ích – sự tán thán khích lệ tinh thần cho người tu gồm cả xuất gia
và tại gia khi họ phổ biến chánh pháp đã được thực hiện và mang lại kết quả thiết
thực. Số người tu chứng và số lượng Phật tử không ngừng gia tăng.
Ngày nay, những người cư sĩ làm công việc truyền bá chánh pháp không phải
là hiếm thấy. Điều đó có nghĩa là nhiều người cư sĩ vẫn tự ý thức được vai trò
của họ trong việc tu tập và hộ trì Phật giáo. Điều đáng nói là các tổ chức Phật
giáo dường như quên lãng việc tán thán khích lệ những người cư sĩ làm công tác
truyền bá đạo Phật. Hiếm có chùa nào thống kê số lượng Phật tử quy y hàng năm
và tổng số tín đồ gia tăng trong 5 năm, 10 năm…. Hiếm có chùa nào hướng dẫn cư
sĩ kỹ năng truyền bá chánh pháp cho những người chưa là Phật tử. Càng hiếm thấy
chùa nào quan tâm tán thưởng những người có đóng góp trong việc giới thiệu nhiều
người vào đạo tu tập.
Như vậy, lợi ích tinh thần cho những người cư sĩ hoằng pháp chưa được
thực hiện bởi Phật giáo chưa có chương trình đề cập vai trò và trách nhiệm hoằng
pháp của mỗi người cư sĩ. Kết quả là đa số cư sĩ không biết hay biết mà không
có kỹ năng thực hiện vai trò truyền bá chánh pháp của mình. Cho nên, nhiều gia
đình cha mẹ là Phật tử nhưng không hướng được con cháu đến với đạo Phật để trở
thành Phật tử mà để chúng theo các tôn giáo khác hay không theo tôn giáo cụ thể
nào. Phật giáo vì vậy trở nên thiếu sức sống và người Phật tử trở nên thờ ơ với
sự sống còn của đạo Phật.
Có rất nhiều nguyên nhân đưa đến tình trạng thiếu sức sống của Phật
giáo và sự thờ ơ của Phật tử. Một trong những nguyên nhân phổ biến hiện nay là
sự lý tưởng hóa đạo Phật và thiếu sự tương trợ trong tổ chức Phật giáo. Các nhà
hoằng pháp thường hay lý tưởng hóa Phật giáo bằng cách trích dẫn, giảng giải những
giáo lý vô ngã, tinh thần bồ tát…nhưng thực tế chẳng mấy ai đủ năng lực thực
hành được một phần những giáo lý ấy. Do đó, Phật giáo trở giáo thuyết đẹp lý tưởng,
linh thiêng hơn là mang tính thực hành.
Về sự tương trợ, tổ chức Phật giáo thiếu hẳn chương trình và mục tiêu
này từ cấp cao nhất cho đến cấp cơ sở. Về mặt hình thức, các ban ngành đều có đầy
đủ nhưng trên thực tế thì mạnh ai nấy làm. Kết quả là Phật giáo đóng góp rất
nhiều (chứ không phải là thiếu tài chánh) nhưng chính những người Phật tử nghèo
thiếu không được hưởng, những cơ sở Phật giáo thiếu thốn (các chùa ở thôn quê)
không được hỗ trợ, chương trình hoằng pháp xa xôi bế tắt vì không có kinh
phí…Phật giáo không có khả năng tổ chức để giúp đỡ con em Phật tử nghèo thì làm
sao họ mang ơn Phật để mà theo Phật. Trong khi đó, các tôn giáo khác nhân danh
đấng tối cao đem đến cho họ cuộc sống khá hơn thì lẽ nào họ từ chối?!
Tóm lại, Phật tử tinh tấn tu tập thì tất nhiên có sự an lạc giải thoát;
Phật tử đóng góp vật chất thông qua bố thí cúng dường hay truyền bá chánh pháp
thì tất nhiên hưởng phước báu và đáng được nhận sự khích lệ tinh thần từ các tổ
chức Phật giáo; và Phật tử nghèo thiếu, bịnh tật, gặp khó khăn thì cũng đáng được
nhận sự giúp đỡ của các tổ chức từ thiện Phật giáo. Khi Phật tử được sự quan
tâm, trợ duyên thì họ sẽ gắn bó với Phật giáo, sẽ có bổn phận và trách nhiệm bảo
vệ Phật giáo. Sự trợ duyên lẫn nhau giữa người xuất gia và tại gia; giữa Phật tử
giàu và nghèo sẽ tạo mối liên kết, gắn bó trong cộng đồng Phật giáo. Đó là điều
kiện quan trọng làm cho Phật giáo tồn tại lâu dài và lớn mạnh.
No comments:
Post a Comment