Wednesday, August 21, 2013

Vu lan - Ngày tự tứ

Hôm nay nhân ngày lễ Vu Lan tức ngày Rằm tháng Bảy, trong đạo gọi là ngày tự tứ của chúng Tăng. Tất cả quý Phật tử tụ tập về chùa làm lễ cúng dường chư Tăng và cũng để nghe quý thầy nói về ý nghĩa của ngày lễ Vu Lan. Như vậy chữ Vu Lan mang ý nghĩa gì ?
Trong đạo Phật, ngày Vu Lan là ngày nói lên tinh thần phục thiện, hối cải của Tăng Ni, vừa gợi lại lòng hiếu thảo của người con Phật, vừa là ngày tha thứ mọi lỗi lầm của chúng sinh. Đ
ó, nó mang những ý nghĩa quan trọng như vậy. Cho nên mỗi năm đến ngày Rằm tháng Bảy, Phật tử chúng ta đều tụ hội về các chùa để cúng dường cầu nguyện và để nghe, hiểu được tinh thần đạo hiếu. Bây giờ chúng tôi sẽ giảng từng mục để quý vị thấy rõ tinh thần phục thiện ấy như thế nào.
Ngày lễ Vu Lan nói theo nhà đạo là ngày tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình. Những lỗi lầm đó hoặc là các Ngài thấy, các Ngài nghe cho đến chưa thấy, chưa nghe mà chỉ nghi thôi cũng cứ chỉ. Nếu mình thấy đó là lỗi thật thì mình thành tâm sám hối chớ không dám cãi, không dám bỏ qua. Bởi vậy nên ngày này chư Phật rất vui vì thấy chúng đệ tử có tâm hồn phục thiện, biết cải hối những lỗi lầm. Do đó cũng gọi là ngày Phật hoan hỷ. Đó là ý nghĩa thứ nhất.
Ý nghĩa thứ hai, ngày này là ngày gợi lại lòng hiếu thảo của người con Phật. Bởi vì theo tinh thần kinh Vu Lan, ngày Rằm tháng Bảy chính là ngày Tôn giả Mục Kiền Liên tìm thấy mẹ đang sanh trong kiếp ngạ quỷ khổ đau, mà tự bản thân Ngài cứu không được. Ngài mới nhờ Phật chỉ dạy phương pháp cứu độ mẹ. Nhân đó Phật dạy muốn cứu mẹ thoát khỏi tai ách, phải nên cúng dường chư Tăng, Ni. Nhờ lực gia trì của Tăng, Ni phụ giúp cho mẹ Ngài chuyển đỗi tâm ác, thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Với lòng thành kính của người con thảo, Ngài đã thực hiện đúng những lời Phật dạy và mẹ Ngài cũng thoát khỏi kiếp ngạ quỷ.
Nên ngày nay chúng ta học theo gương của Ngài. Thường những khi tụng kinh chúng ta hay niệm "Nam mô Đại hiếu Mục Kiền Liên Bổ tát" để tưởng niệm Ngài là một người con hiếu thảo. Tuy xuất gia tu hành mà Ngài vẫn còn lo sợ cha mẹ không có phước, sanh chỗ không tốt nên Ngài tìm kiếm xem mẹ đã sanh ở đâu. Khi thấy mẹ sanh trong kiếp ngạ quỷ, động lòng thương mẹ, Ngài liền thỉnh Phật chỉ dạy phương cách cứu mẹ. Chính nhờ lòng thành đó mà đến Rằm tháng Bảy là ngày tự tứ của chúng Tăng, Phật dạy chúng ta nên cúng dường chư Tăng, nhờ chư Tăng phụ lực mà thân mẫu trong nhiều đời được siêu thăng. Nên ngày này còn gọi là ngày báo hiếu.
Trong mùa này, mỗi Phật tử chúng ta nhớ lại công ơn cha mẹ sanh thành nuôi dưỡng cực khổ, cho nên chúng ta nhờ sức chú nguyện của chư Tăng, Ni ; nếu cha mẹ có sa vào đường khổ thì nhờ phúc đức này được thoát khỏi. Còn nếu cha mẹ không đi trong đường khổ thì nhờ phúc đức này mà được tăng trưởng thiện căn. Nếu cha mẹ hiện tiền cũng nhờ đó mà tăng trưởng tuổi thọ và phát tâm Bổ đề. Đó là ý nghĩa báo hiếu của người con Phật.
Bởi vậy ngày Vu Lan còn có tên là ngày xá tội vong nhân. Đó là ngày tha thứ mọi lỗi lầm, ngày mà mọi người đều ăn năn, xin cải đổi sám hối, mong các vị lớn tha thứ cho. Nhờ ý nghĩa tha thứ những lỗi lầm đó nên cũng chính ngày này chư Tăng, Ni thành tâm cầu nguyện cho các vong nhân được khỏi những kiếp khổ đau.
Tôi đã kể sơ qua về ý nghĩa của ngày lễ Vu Lan rồi. Bây giờ đi sâu hơn về hạnh hiếu của người con Phật. Nhiều khi quý Phật tử thắc mắc, Phật dạy làm con phải hiếu thảo với cha mẹ, nhưng quý thầy, quý cô lại bỏ cha bỏ mẹ đi tu, như vậy là bất hiếu rồi, làm sao dạy Phật tử có hiếu được ? Không phải vậy. Mới nhìn chúng ta thấy như là bất hiếu, nhưng trái lại là chí hiếu. Tại sao ? Vì đi tu không có nghĩa là tìm nơi an nhàn để thụ hưởng yên ỗn cho riêng mình ; mà vì thương cha thương mẹ, thương chúng sinh, muốn tu làm sao tự bản thân mình giải được những phiền não khổ đau, rồi sau đó giúp cha mẹ và hướng dẫn mọi người hướng về con đường đạo đức, bỏ đi những điều tội lỗi. Đó là đền đáp công ơn cha mẹ.
Theo thế gian, hiếu thảo với cha mẹ là lo đủ mọi thứ, nào là cơm ăn, áo mặc, giường chõng, thuốc men... nhưng có người nào lo mà cha mẹ khỏi chết không ? Dù nuôi kỹ cách mấy rồi chết cũng phải chết. Theo tinh thần đạo Phật, chúng ta không chỉ có mặt ở một đời này mà còn có mặt ở vô số kiếp về trước và sau nữa, nên mất thân này sẽ mang thân khác. Do đó nếu ngay thân này không biết làm lành thì e rằng đời sau sẽ đọa những đường khổ. Bởi vậy người tu phải làm sao thức tỉnh cha mẹ hướng về con đường lành, để cho cha mẹ có mất đi thì sẽ được hạnh phúc, an vui trong những đời sau.
Tôi thí dụ như cha mẹ năm sáu mươi tuổi, có con mười mấy tuổi phát tâm đi tu, ban đầu cha mẹ buồn trách nhưng sau đó lại tự xấu hỗ. Vì nghĩ rằng con mình còn nhỏ nhưng không ham ăn, không ham danh lợi, còn mình già rồi mà vẫn chưa thức tỉnh. Nghĩ vậy, tự nhiên mình cũng bắt chước, lần lần bớt ham ăn, lại tập ăn chay ; bớt ham danh lợi, nhờ vậy mình tu từ từ. Rõ ràng, lúc đầu thì thấy con như dở, nhưng càng về sau lại thấy càng hay. Cho nên phần nhiều những gia đình có con đi tu thì dần dần cha mẹ và gia quyến cũng bắt chước tu theo. Đó là tinh thần hiếu đễ của người xuất gia.
Người ở thế gian cứ nghĩ nuôi cha mẹ được ấm no, đầy đủ là có hiếu, nhưng quên rằng tuổi thọ cha mẹ có giới hạn, tới mức độ nào rồi cũng phải đi. Cho nên làm sao vừa lo cho hiện tại được ấm no mà nghĩ tới tương lai, sau khi cha mẹ bỏ thân này được thân sau cũng phải sáng sủa, tốt đẹp hơn nhiều. Đó mới gọi là người biết lo chân chính, lâu dài. Như vậy tinh thần của người tu không phải là bỏ cha mẹ mà là thương cha mẹ. Vì muốn hướng cha mẹ về đường lành, hướng thân quyến phát tâm Bồ đề nên mới đi tu.
Với truyền thống người Việt Nam ta, hiếu thảo là một điều rất thiêng liêng, rất cao cả. Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết. Thuở xưa cha ông chúng ta cũng từng răn dạy những điều đó. Tôi dẫn một ít đoạn trong ca dao, tục ngữ để quý vị thấy hiếu thảo là một điều hết sức quan trọng.


Nuôi con chẳng quản chi thân


Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn


Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn


Lên non xắn đá xây lăng phụng thờ.
Qua bốn câu này, quý vị thấy người bình dân Việt Nam đối với công ơn cha mẹ rất là thắm thiết. "Nuôi con chẳng quản chi thân", khi cha mẹ nuôi con thì không nghĩ gì tới mình hết, miễn con khỏe mạnh là cha mẹ vui. Con bệnh hoặc bị phiền não hay tật nguyền gì đó thì cha mẹ buồn khổ. Cha mẹ muốn hy sinh thân mình cho con được khỏe mạnh. Dù cực khổ, khó khăn đến mấy cũng vẫn không nề, không chán. Câu sau "Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn", thật thấm làm sao ! Những năm trước bốn mươi lăm, ở Việt Nam mình kinh tế rất là chật vật, quý vị nào có ở miền quê mới thấy cảnh cha mẹ nghèo ở nhà lá rách, giường chiếu chỉ có một đôi thôi. Con nhỏ chừng một, hai tuổi ban đêm có bệnh hay đái dầm. Khi đái dầm thì ướt, ướt mà không có chiếu thay nên mẹ nằm bên ướt, để con chỗ khô ráo cho nó ngủ ngon. Cái tình của người mẹ quê như vậy, người không nghĩ đến mình mà chỉ nghĩ làm sao cho con ngủ ngon giấc, con được khỏe mạnh, con chóng lớn lên. Người mẹ xưa đã sống trong cảnh cơ cực đó nên mới nói lên được câu này : "Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn". Người mẹ lúc nào cũng trải thân mình cho con cái, quên cả mọi khổ sở, mọi đau đớn, miễn làm sao cho con ăn ngon ngủ được, đó là yên lòng mẹ.
Cha mẹ đối với con đã không kể thân, không nghĩ tới phần của mình, thì làm con cái phải làm sao ? Chúng ta là con, muốn đền được ơn đó thì phải nhớ câu : "Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn, lên non xắn đá xây lăng phụng thờ". Khi cha mẹ chết rồi mình mới lớn khôn, nhớ ơn cha mẹ không biết làm sao cho nên cạy đá, xây lăng thờ cha phụng mẹ, đó là nói theo người thế gian. Còn nói theo tinh thần đạo Phật thì nếu cha mẹ chết rồi, chúng ta ráng làm điều lành, điều phước để hổi hướng cho cha mẹ. Nếu cha mẹ còn sinh tiền, chúng ta lo lắng cho cha mẹ được ấm no, được hạnh phúc, biết quy hướng về Tam bảo, đó là bỗn phận của người con hiếu.
Lại một bài nữa :


Công cha nghĩa mẹ cao vời


Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta


Nên người, ta phải xót xa


Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao.
Nghĩa là công ơn cha mẹ rất cao vời, không có gì sánh được. Cha mẹ có khi nào nghĩ rằng tôi nuôi nó chừng ba năm, bảy năm rồi bỏ nó muốn ra sao thì ra đâu. Từ thuở còn bé, nằm nôi cho tới khi lớn khôn, có đôi bạn, có con, vẫn cứ lo. Hết con tới cháu, cho tới đầu bạc phơ, rồi tới ngày tắt thở mới thôi. Như vậy để thấy thâm tình cha mẹ đối với con không biết bao nhiêu mà kể. Như vậy bỗn phận làm con ta phải làm sao ? "Nên người, ta phải xót xa", khi lớn khôn rồi nghĩ đến công ơn cha mẹ như trời cao, biển rộng. Ân nghĩa đó nặng nề sâu thẳm chớ không phải là thường. Cho nên người Phật tử khi nghĩ tới công ơn cao siêu vời vợi của cha mẹ, chúng ta phải hết lòng hết dạ đền đáp. Nếu không đền đáp được nhiều ít ra cũng năm, mười phần chớ không thể nào chúng ta bỏ mặc cha mẹ ra sao thì ra, đó là không biết đạo nghĩa. Trong đạo Phật thường nhắc nhở, trong năm tội ngũ nghịch thì tội bất hiếu với cha mẹ là đầu.
Tôi dẫn một câu chuyện hiếu thảo hơi lạ để quý Phật tử thấy rõ ý nghĩa công ơn cha mẹ như đã nêu. Ngày xưa có anh chàng nọ vừa dở, vừa không gặp thời, làm ăn đâu thất bại đó. Gia đình một vợ năm bảy con, nuôi không xuể, thiếu hụt đủ thứ. Cạnh bên có người láng giềng rất hào hiệp, mỗi khi anh túng quẫn anh qua nhà ấy vay mượn, mượn rồi không có tiền trả. Thời gian sau túng quẫn nữa anh lại qua nữa, nhưng rồi cũng không có tiền trả. Tuy nhiên người hảo tâm kia vẫn cứ cho mượn hoài, đến khi anh nhà nghèo già và chết. Khi ấy anh bị lôi xuống Diêm Vương, ngục tốt tra khảo sổ sách thì thấy anh nợ người láng giềng quá nhiều, Diêm Vương ra lệnh : "Bây giờ chú mày phải sanh trở lại làm trâu kéo cày để đền trả nợ trước". Anh chàng đó nói :
- Không được, cho làm trâu không đủ trả, xin cho tôi làm cha nó mới đủ trả.
Diêm Vương ngạc nhiên quá :
- Tại sao đã thiếu nợ người ta mà còn đòi làm cha người ta nữa ?
Anh chàng liền giải thích :
- Nếu làm trâu thì sống bảy tám tuổi, cao lắm mười hai tuổi là chết. Mười hai năm kéo cày trả nợ không đủ. Chỉ có làm cha là tôi lo cho đến hết đời, nuôi nấng họ đến hết đời. Hết đời tôi rồi, còn dư bao nhiêu tiền của để lại cho họ luôn. Nếu tôi còn sống dai thì nó có cháu, có chắt tôi cũng nuôi tất. Như vậy mới khả dĩ trả hết bởi nợ to quá.
Như vậy quý vị thấy làm cha còn nặng hơn làm trâu nữa. Vì làm trâu chỉ giới hạn bảy tám năm hay chín mười năm thôi, còn làm cha là suốt một đời, trả hoài cho đến đời cháu nữa. Và có ai chửi mắng gì mình cũng nhận chịu luôn. Nhận hết mọi việc như vậy mới đủ trả. Câu chuyện có tính cách khôi hài, nhưng qua đó chúng ta thấy công ân của cha mẹ không thể kể hết, phải không ? Cho nên người ta bảo kiếp làm cha mẹ đối với con còn hơn kiếp trâu ngựa nữa chớ không phải là vừa. Vậy mà nhiều khi con không nhớ, không biết, còn phụ rẫy, bạc bẽo lại với cha mẹ nữa. Thật là tội lỗi biết bao !
Đã không biết ơn cha mẹ thì ơn xã hội chắc càng không biết. Nếu người không biết ơn nghĩa gì hết thì con người đó gọi là con người gì ? Con người vô ơn bạc nghĩa. Đã là người vô ơn bạc nghĩa thì còn dùng được chỗ nào ? Bởi vậy muốn thành một người tốt đối với xã hội, trước hết chúng ta phải là người con hiếu thảo với cha mẹ. Do biết thương cha mẹ nên mình không đánh lộn, cãi lộn, hút thuốc, uống rượu, làm những việc hư thân khiến cha mẹ buồn. Nhờ thế mà mình thành một người tốt trong xã hội. Thế nên hiếu thảo là bước đầu để xây dựng gia đình tốt đẹp, xã hội văn minh, quốc gia cường thịnh.
Đến đây, tôi dẫn một bài phú dạy con, nếu nói đủ tên là bài phú Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi chết, xuống âm ty bảy ngày thấy hết các việc ở địa ngục, được sống trở lại làm phú dạy con. Mạc Đỉnh Chi nguyên là một vị Trạng nguyên sống ở cuối đời Trần, cũng là một nhà Nho rất tài ba lỗi lạc. Theo truyền thuyết kể lại, có thời gian ông chết luôn bảy ngày. Sau bảy ngày đó ông sống trở lại và làm bài phú này dạy các con của ông. Bởi trong bảy ngày đó, ông đã trải qua cảnh âm phủ và được thức tỉnh nên ông muốn các con mình phải ăn ở sao cho hợp đạo lý, khỏi bị đọa xuống địa ngục chịu những tội khổ. Bài phú rất dài, ở đây tôi chỉ trích một ít đoạn đọc cho quý vị nghe :
Bài phú này là văn Nôm nên có những tiếng rất xưa :


Nhất thiết thăng trầm,


Mệnh sinh ngũ dục.


Nghiệp nặng nhiều ngày,


Sinh loài hữu trược.


Vì lòng vì dạ,


Thương cái thương con.


Chịu khó đêm ngày,


Cưu mang đùm bọc.
Đó là phần mở đầu. Ngài nói tất cả chúng ta ở trên thế gian này có khi thăng, có khi trầm. Thăng tức là sanh các cõi trên, trầm tức là chìm các cõi dưới. "Mệnh sinh ngũ dục" tức là mạng sống mình sanh trong cõi đời ngũ dục này. "Nghiệp nặng nhiều ngày, sinh loài hữu trược", bởi vì nghiệp nặng lâu rồi cho nên sinh trong cõi hữu trược ác thế này. Và Ngài kết lại : "Vì lòng vì dạ, thương cái thương con. Chịu khó đêm ngày, cưu mang đùm bọc", người cha người mẹ thương con thương cái nên đêm ngày cưu mang, đùm bọc cho nó.
Đoạn kế tiếp :


Mình nằm địa ngục,


Vò võ đêm ngày.


Một mình khó thay,


Chịu thương chịu bức.


Chị em chẳng thấy,


Con cháu hay sao ?


Mình khó mình thương,


Ai coi ai sóc.


Thuở ngồi chưng thế,


Chưa được bao chày.


Đến chết bằng nay,


Người thui người đốt.


Mệnh sang mệnh khó,


Tiếng khóc ngập ngừng.


Than trách thân rằng,


Chẳng hay làm phúc.


Bao nhiêu của tốt,


Con cái chia nhau.


Địa ngục tù lao,


Một mình chịu chết.
Đoạn này ông kể khi xuống địa ngục "mình nằm địa ngục, vò võ đêm ngày", một mình một bóng qua đêm này tháng kia không thấy ai hết. "Một mình khó thay, chịu thương chịu bức" tức là chịu đâm, chịu chém bao nhiêu cái khổ nhọc. "Chị em chẳng thấy, con cái hay sao ?", có nghĩa là chị em không thấy mà con cái cũng không có đứa nào thay thế được cho mình. "Mình khó mình thương, ai coi ai sóc", lúc đó chỉ một mình, mình chịu khổ chịu khó, lo cho mình chớ không ai coi sóc, ngó ngàng mình hết.
Thuở ngồi chưng thế, chưa được bao chày" tức là lúc mình còn ở trên trần thế chưa được bao lâu. "Đến chết bằng nay, người thui người đốt", đến khi mình tạo nghiệp ác nhiều quá, mình chết đi bị thui bị đốt. "Mệnh sang mệnh khó, tiếng khóc ngập ngừng" nghĩa là sinh mệnh mình chịu không biết bao nhiêu khổ đau trong các cảnh địa ngục, tiếng khóc ngập ngừng từng chặng, từng chặng. "Than trách thân rằng, chẳng hay làm phúc", đến lúc đó tự than hồi ở dương thế mình chẳng hay làm phúc nên bây giờ phải khổ vậy. "Địa ngục tù lao, một mình chịu chết. Bao nhiêu của tốt, con cái chia nhau", vì làm cho có nhiều tiền của nên có khi phải làm ác, nhưng lúc chết để lại con cái đứa này chia, đứa kia chia, chia cho hết, còn mình thì "Địa ngục cần lao, một mình chịu chết", con cái có biết chút nào đâu.
Đoạn kế :


Cha đà đến đấy,


Biết được lòng thương.


Bảo chúng con hay,


Ở đời làm phúc.


Lâm chung số hết,


Cho kẻo luân hồi


Niệm Bụt ăn chay,


Diêm vương mới phục


Dầu phàm dầu thánh,


Miễn được an nhàn.


Trọng pháp kính thầy,


Thí bần tác phúc.


Cơm ăn phải bữa,


Ai đói thì cho.


Bớt miệng xui lòng,


Mỗi người một chút.


Kim Cương thường đọc,


Bố thí làm duyên.


Nghiệp dữ thì chừa,


Lành thì tua cốc.
"Cha đà đến đấy, biết được lòng thương", Ngài Mạc Đỉnh Chi chết xuống đó thấy thật rõ ràng, chứng kiến được cảnh ấy rồi, nên mới thương xót dạy con "Bảo chúng con hay, ở đời làm phúc", dạy con sống ở trên đời ráng làm phúc, chớ không khéo thì xuống dưới khổ. "Lâm chung số hết, cho kẻo luân hồi", nếu làm phúc thì khi tuổi thọ hết, lâm chung, mình khỏi luân hồi trong các đường dữ. "Niệm Bụt ăn chay, Diêm vương mới phục", sống mà biết niệm Phật, biết ăn chay, biết tu hành thì chết Diêm vương mới sợ mình, chứ còn nhiều của nhiều tiền Diêm vương cũng không sợ đâu. "Dầu phàm dầu thánh, miễn được an nhàn", mình làm phàm hay làm thánh nhưng đến chết miễn được nhẹ nhàng thảnh thơi là tốt. "Trọng pháp kính thầy, thí bần tác phúc", đối với chánh pháp phải kính trọng, đối với người tu chân chính phải tôn quý. Thí bần là giúp cho kẻ nghèo khó, làm những điều phúc thiện.
"Cơm ăn phải bữa, ai đói thì cho", một ngày hai bữa thôi, thấy có ai thiếu thì chia sớt cho họ. "Bớt miệng xui lòng, mỗi người một chút", bớt phần ăn của mình để chia xẻ với người. Mỗi người một chút, cùng sống qua ngày qua tháng với nhau, chớ đừng để mình dư dả quá mà người khác đói thiếu, đó là điều không tốt. "Kim Cương thường đọc, bố thí làm duyên", thường tụng kinh Kim Cương, làm các việc bố thí để gieo duyên lành. "Nghiệp dữ thì chừa, lành thì tua cốc", nghiệp dữ thì chừa còn nghiệp lành thì nhận hiểu và vâng làm. Tua cốc là hiểu biết. Hiểu biết và làm chớ đừng để trôi qua suông.
Như vậy đoạn này ông dạy con cái rất là tha thiết, nhắc nhở con trong cuộc sống này, phải lấy việc làm lành, làm phúc là trên. Khi còn sống biết tu, biết đạo đức thì chết xuống Diêm vương mới sợ, chớ nhiều tiền nhiều của không cứu được mình đâu. Đến đoạn kết :


Hễ phường bạo ngược,


Sát, đạo, tà dâm.


Tội nặng muôn năm,


Phải chừa, phải bớt.


Đội ơn Trời đất,


Cha mẹ sinh thành.


Cho gấp chớ chày,


Tu hành làm Bụt.
Ngài dạy con cháu đừng làm bạo ngược. Phường bạo ngược là gì ? Là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, tức ngũ giới. Nếu phạm ngũ giới là phường bạo ngược. "Tội nặng muôn năm, phải chừa phải bớt", đó là tội nặng muôn đời nên mình phải chừa, phải bỏ. "Đội ơn Trời đất, cha mẹ sinh thành", sống trong Trời đất, trong xã hội thì mình phải biết mang ơn chung tất cả, nhất là ơn sanh thành của cha mẹ. "Cho gấp chớ chày, tu hành làm Bụt", phải gấp tu hành chớ đừng chậm trễ, làm sao thành Phật mới là hay.
Bài phú này dài lắm, tôi không có thì giờ đọc hết cho quý vị nghe. Bài phú này còn ghi lại trong văn chương đời Trần chớ không phải câu chuyện truyền miệng mà thôi. Chúng ta thấy Mạc Đỉnh Chi là một nhà Nho, không tin đạo Phật, nhưng chết rồi sống trở lại, chừng đó ông mới tin và khuyên con tha thiết, dạy con phải làm sao ăn hiền ở lành, biết niệm Phật, ăn chay, tụng kinh, trọng pháp, kính quý chư Tăng và làm những điều lành. Ông còn dạy con chỉ hưởng một ít để chia người chứ không vì sung sướng mà thụ hưởng riêng mình. Ông sợ nhất là những tội sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu vì các tội đó là tội nặng nên muôn năm phải chừa, phải bớt.
Chúng ta quy y với Phật, Phật bắt giữ năm giới là để trừ, để chặn các tội bạo ngược đó, không phạm tội thì mới không rơi vào địa ngục. Lại còn phải biết ơn Trời đất, ơn mọi người và nhất là ơn cha mẹ. Nên gấp tu hành chớ để chậm trễ.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy việc quan trọng ở trên đời, chúng ta phải tu làm sao tránh khỏi tội cho mình mà cũng là tránh khỏi những tội khổ cho người thân của mình nữa. Tôi kể một câu chuyện khác để quý vị nhớ thêm.
Hồi xưa lúc Đức Phật trở về thành Ca-tỳ-la để giáo hóa trong quyến thuộc. Sau đó bà Di mẫu phát tâm xuất gia, bà tìm tới Phật xin xuất gia thì Phật không cho, nên bà buồn bà khóc. Tôn giả A Nan thấy Di mẫu khóc Ngài xót xa quá, lại nghe Di mẫu kể lể bà quyết tâm xuất gia mà Phật không chịu nhận nên bà tủi thân lắm. Ngài A Nan nói : "Để con xin cho, con xin chắc được". Tôn giả liền vô xin với Phật, Phật cũng lắc đầu. Lúc ấy, Ngài mới kể ơn rằng :
- Lúc Như Lai còn làm Thái tử, sinh ra bảy ngày thì Mẫu hoàng mất, từ đó về sau Di mẫu nuôi Ngài cho tới khôn lớn. Công ơn nuôi nấng đó rất nặng nề, tại sao Như Lai không cho Di mẫu xuất gia để đền ơn khó khổ của Người ?
Đức Phật liền trả lời :
- Ta đã đền ơn Di mẫu rồi.
Ngài A Nan hỏi :
- Như Lai đền ơn bằng cách nào ?
Đức Phật nói :
- Khi ta về thành Ca-tỳ-la-vệ, ta đã khuyến hóa Phụ vương và Di mẫu quy y Tam bảo và thọ trì năm giới. Quý vị đã thọ trì năm giới thì ta đã đền công ơn nuôi dưỡng rồi.
Theo lời Phật dạy, chúng ta thấy người giữ năm giới bảo đảm không sa vào đường dữ. Thế nên, thương cha mẹ không gì quý hơn là làm sao cho cha mẹ phát tâm quy y Tam bảo, biết giữ gìn năm giới để mai kia cha mẹ trăm tuổi không đi vào con đường khổ. Đó là lòng thương song thân của người Phật tử. Chỉ cần khuyên cha mẹ biết giữ năm giới, biết quy y Tam bảo là đã đủ đền ơn. Cho nên đền ơn cha mẹ không phải bằng những hình thức vật chất mà đền ơn bằng tinh thần tu hành. Chúng ta thấy Mạc Đỉnh Chi khuyên con cái tránh đường bạo ngược là sát, đạo, dâm, vọng và uống rượu ; đâu khác Đức Phật nói Ngài thương cha mẹ, giúp cha mẹ giữ được năm giới là đã đền ơn rồi.
Trước tiên, mình phải hiếu thảo với cha mẹ, thì sau con cái mới hiếu thảo với mình. Nếu mình không hiếu thảo với cha mẹ mà bắt con cái hiếu thảo với mình thì điều đó không bao giờ có. Tục ngữ có câu :

Nếu mình hiếu với mẹ cha,
Chắc con cũng hiếu với ta khác gì.
Nếu mình ăn ở vô nghì,
Đừng mong con hiếu làm gì hoài công.

Đó, "nếu mình hiếu với mẹ cha, chắc con cũng hiếu với ta khác gì", nếu mình hiếu thảo với cha mẹ thì chắc rằng con mình sẽ hiếu thảo với mình, không có gì khác hết. "Nếu mình ăn ở vô nghì" tức là ăn ở bất hiếu với cha mẹ, "đừng mong con hiếu làm gì hoài công", nếu ăn ở bất hiếu với cha mẹ, mà lại mong con hiếu thảo với mình thì đó là chuyện hoài công, vô ích, không bao giờ có. Đến đây tôi kể một câu chuyện vui nữa :
Hồi xưa, có một anh chàng còn trẻ, mới mười tám đôi mươi thôi mà anh bất hiếu với cha mẹ quá chừng nên thiên đình bắt tội, sai Thiên lôi đánh anh một cái cho nát thây để trị tội bất hiếu. Nhưng Thiên lôi vừa cầm búa chực đánh thì anh thấy, anh chụp tay Thiên lôi lại và hỏi :
- Ngài là Thiên lôi cũ hay Thiên lôi mới ?
Thiên lôi ngạc nhiên quá :
- Cũ mới gì chuyện của tao, không có quan hệ đến mày. Mày bất hiếu thì tao đánh mày.
- Không. Nếu Ngài là Thiên lôi mới thì đánh tôi, tôi chịu ; còn Ngài là Thiên lôi cũ thì cho tôi nói chuyện.
Không biết chuyện gì, Thiên lôi ngừng tay lại nghe hắn nói :
- Ba tôi bất hiếu với ông nội tôi bằng ba lần của tôi mà ba tôi không bị ông đánh, bây giờ tôi bất hiếu mới bằng một phần ba của ba tôi mà ông đánh tôi, vậy không hợp lý rồi.
Thiên lôi đành buông búa đi về.
Quý vị thấy câu chuyện có vẻ tiếu lâm, nhưng nói lên được ý nghĩa cha bất hiếu thì sanh con cũng bất hiếu, không thể nào khác hơn được. Tất cả chúng ta ai cũng muốn con cái sau này hiếu thảo thì bản thân mình phải là những người con hiếu thảo. Có nghĩa là chúng ta vừa làm bổn phận của mình mà vừa làm gương cho con noi theo. Đó là một đức tính tốt, lợi mình lợi người. Nếu chúng ta không hiểu, chỉ một bề sống cho được thỏa thích riêng mình, mà quên ơn lớn của cha mẹ thì về sau chắc chắn sẽ bị con cái phụ rẫy.
Cha mẹ về già thường có những việc dễ làm mình buồn lắm. Thứ nhứt là già hay bệnh hoạn. Già với bệnh theo nhau, bệnh hoạn chừng năm bảy bữa thì con cháu còn sốt sắng, chứ bệnh hoạn tháng này qua năm nọ thì con cháu lo lắng lâu ngày dễ sanh buồn chán. Thứ hai, già yếu hay đau nhức nên thường sanh bực bội, phiền não. Phiền não nên dễ giận, dễ quạu lắm. Con cháu đụng chút liền giận laá; mà la hoài thì nó cũng chán nữa. Thứ ba là cha mẹ già bệnh hoạn ít đi đâu được, cứ ngồi trông đứa này, trông đứa kia. Nếu con cháu chậm về thăm thì buồn phiền, trách móc. Như vậy, con cái thường chán cha mẹ vì bệnh hoạn, vì hay rầy rà, vì hay buồn trách. Do chán nên sanh ra coi thường, vì vậy trở thành bất hiếu.
Tôi xin hỏi tất cả quý vị, mai này chúng ta có già không ? Có. Nếu bây giờ mình chán ông mình, cha mình, mẹ mình già sanh tật khó, hay trách cứ nên mình không vui. Không vui nên mình bỏ lãng, mà bỏ lãng thì thành bất hiếu. Ngày nay mình bỏ lãng cha mẹ được thì mai này con mình cũng bỏ lãng mình luôn. Bởi vì khi già mình cũng có những tật y như vậy. Người trước thế nào thì người sau cũng thế ấy thôi. Cho nên dù cha mẹ có khó tính mấy, có bệnh hoạn nhiều, có rầy trách bao nhiêu đi nữa chúng ta cũng vui chịu. Vì nghĩ rầng công ơn cha mẹ không làm sao đền đáp cho cân. Bổn phận làm con phải lo cho cha mẹ, dù chết thân, dù hết của mình cũng làm chớ không vì cái vui riêng, cái lợi riêng mà bỏ cha bỏ mẹ. Như vậy là trái với đạo lý.
Hôm nay nhân ngày lễ Vu Lan chúng tôi dẫn một ít đoạn, vừa ca dao tục ngữ, vừa những lời phú của Mạc Đỉnh Chi để nhắc cho tất cả quý Phật tử biết thế nào là tội, thế nào là phước, thế nào là nên làm, thế nào không nên làm. Nhất là suốt đời không bao giờ mình dám bất hiếu. Người Phật tử có hiếu phụng thờ, lo lắng cho đến ngày nào cha mẹ qua đời mà lòng vẫn còn thương mến, như vậy mới đúng tinh thần Phật dạy. Chúng ta không chỉ lo ăn mặc thôi, nếu cha mẹ còn sinh tiền phải khuyến hóa làm sao cha mẹ phát Bồ đề tâm, biết làm điều phúc, tránh điều tội và biết hướng về Tam bảo tu hành. Đó mới là gốc của hiếu đạo. Nếu cha mẹ đã phát tâm biết làm phúc, biết tu rồi thì chúng ta trợ lực cho sự tu hành đó càng ngày càng tinh tấn hơn, đó là tinh thần của người con hiếu thảo trong đạo Phật.
Quý vị đã có mặt trong hội Vu Lan này, tôi mong rằng chúng ta không đặt việc gì trên cha mẹ, cha mẹ là trên tất cả. Suốt đời chúng ta phục vụ thờ kính cha mẹ cũng chưa xong, đừng nói gì năm năm bảy năm, cho nên phải tu tập hiếu hạnh. Đó là chúng ta đã tạo một nền tảng phúc đức cho mình mà cũng là tạo dựng duyên lành cho con cháu bắt chước ở mai sau. Mong rằng quý vị nhớ và cố gắng thực hành theo. Được vậy mới thật xứng đáng người con hiếu thảo, là người Phật tử chân chính trong đạo.
HT Thích Thanh Từ

PHÁP TỰ TỨ CỦA TĂNG

I -Ý nghĩa và duyên khởi
Tự tứ tiếng Pàli Pavàranà; Phạn là pravàranà, Hán phiên âm là bát-hòa-la, bát lợi ba thích noa và dịch là tự tứ, thỉnh thỉnh, tùy ý, tùy ý sự, mãn túc, hỷ duyệt,…
Pravàranà, Phật đà thập và Trúc đạo sinh dịch là Tự tứ ( Ngũ phần luật 19, Đại chính 22, tr 130c). Tự là tự mình, tứ là buông ra. Nghĩa là vị tỷ kheo sau khi hạ an cư đủ ba tháng, tự mình buông ra lời nói thỉnh cầu một vị tỷ kheo khác đầy đủ năm đức, chỉ điểm những lỗi lầm cho mình qua ba mặt thấy, nghe và nghi, giúp cho mình biết và tự mình cầu xin sám hối để được thanh tịnh.
Ý nghĩa tự tứ là vậy, nên ở Trung A Hàm, Tăng già đề bà dịch là thỉnh thỉnh (Trung A Hàm 29, Thỉnh Thỉnh kinh, Đại Chính 1, tr 610); ở Căn bản nhất thiết hữu bộ tỳ nại da, Nghĩa Tịnh dịch là Tùy ý sự (Đại Chính 23, tr 1044). Nghĩa là pháp tự tứ là tỷ kheo sau khi hạ đủ, tùy ý thỉnh tỷ kheo khác đủ năm đức chỉ bày cho ba sự gồm: Thấy việc sai lầm chỉ bày cho mình; nghe việc sai lầm chỉ bày cho mình và nghi ngờ việc sai lầm chỉ bày cho mình, để tự mình thấy có tội thì như pháp sám hối, khiến thân tâm trở lại thanh tịnh. Do sau khi mãn hạ, sám hối đúng pháp đối với ba sự: kiến, văn và  nghi, nên gọi là mãn túc và tự mình sinh tâm vui mừng, sau khi đã sám hối ba sự đúng pháp và được thanh tịnh, để nhận thêm tuổi hạ, nên gọi là hỷ duyệt. Và ở Luật Tứ Phần 37, Phật đà da xá và Trúc phật niệm dịch là cầu thính. (Đại chính 22, tr 836b).
Pháp Tự tứ, một năm chỉ xẩy ra cho tỷ kheo Tăng một lần, sau khi hạ đủ. Nghĩa là tác pháp kết giới an cư vào ngày mười sáu tháng tư, thì thời điểm tự tứ thích hợp đối với Tăng là ngày rằm tháng bảy. Và nếu tác pháp kết giới hậu an cư, tức là vào ngày mười bảy tháng tư, thì thời điểm thích hợp cho Tăng tác pháp tự tứ là ngày mười sáu tháng bảy,…
Tuy vậy, nhật kỳ tự tứ, Tăng có thể thay đổi để thích ứng những nhu cầu tu học thực tế, nhưng Tăng phải tác pháp yết ma. (Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 840b).
Nói tóm lại, thời gian thích hợp để Tăng tác pháp tự tứ là thời gian sau khi hạ đủ. Và tự tứ của Tăng tỷ kheo một năm chỉ xảy ra một lần sau khi hạ đủ mà thôi.
Mục đích của Tăng tự tứ là ngoài việc biểu hiện cụ thể bản thể hòa hợp và thanh tịnh của Tăng, còn xác định cụ thể sự tăng trưởng lớn mạnh về Giới- định- tuệ của một vị tỷ kheo, sau khi hạ mãn và chấm dứt kỳ hạn an cư, và các tỷ kheo lại tiếp lên đường hoằng pháp.
Theo kinh Thỉnh Thỉnh, bấy giờ tại Tu viện Trúc lâm, vườn Già lan đà, ở Thành Vương- xá, cùng với chúng đại tỷ kheo năm trăm vị đều có mặt cùng ngồi thọ hạ. Bấy giờ ngày trăng thứ 15, từ tâm giải thoát, Đức Thế Tôn nói về hình thức Thỉnh thỉnh.
Ngài dạy các tỷ kheo rằng: Quý vị là đệ tử chân thực của ta, từ nơi miệng mà pháp sanh ra, được chuyển hóa bởi pháp, quý vị hãy dạy cho nhau,  tuần tự dạy nhau thỉnh cầu chỉ điểm.
Bấy giờ Tôn giả Xá lợi phất theo đúng phép tắc cầu thỉnh, đã đến trước Đức Thế Tôn chấp tay cung kính xin thỉnh Ngài chỉ giáo về các hành vi của thân, ngữ và ý. Đức Thế Tôn nói, Ngài không có phiền trách gì đến các hành vi thân, ngữ và ý của Tôn giả. Ngài khen Tôn giả là bậc thông tuệ, đại tuệ, tốc tuệ, tiệp tuệ, lợi tuệ, quảng tuệ, thâm tuệ, xuất yếu tuệ, minh đạt tuệ và thành tựu thực tuệ,…
 Tôn giả Xá Lợi Phất, bạch Thế Tôn rằng, đối với các hành vi thân, ngữ, ý của năm trăm tỷ kheo, Ngài có phiền trách gì không? Thế Tôn dạy, đối với các hành vi của năm trăm tỷ kheo nầy, Ngài cũng không có gì phiền trách cả. Vì sao? Vì các vị nầy đã đạt đến chỗ không còn mắc kẹt, các lậu hoặc đã đoạn tận, phạm hạnh đã thiết lập, điều đáng làm đã làm, đã xả bỏ sự tái sinh đời sau,…
Vì vậy, tôi không có gì phiền trách, các hành vi thuộc về thân, ngữ và ý của năm trăm vị tỷ kheo nầy.
Như vậy, duyên khởi của pháp tự tứ, sau khi mãn hạ đã được ghi lại ở kinh Thỉnh Thỉnh nầy. (Trung A hàm 29,  Đại chính 1, tr 610a).
Lại theo Luật Tứ Phần 37, duyên khởi pháp tự tứ là pháp cầu thính. Bấy giờ nhóm sáu tỷ kheo nói với nhau như vậy: “Đức Phật dạy: Các Tỷ kheo phải cùng dạy bảo nhau, cùng nhau trao đổi, giác ngộ cho nhau”. Họ liền cử tội tỷ kheo thanh tịnh. Các Tỷ kheo đến bạch đức Thế Tôn, Ngài dạy: “Không được vô cớ cử tội người vô tội. Nếu muốn cử tội tỷ kheo hữu sự, trước hết phải nói cho vị ấy biết, để vị ấy cầu thính, sau đó mới được cử”. (Đại chính 37, tr 836a).
Cầu thính là cầu nghe vị tỷ kheo khác cử tội. Người được thỉnh cầu nghe cử tội, người ấy phải có đủ năm pháp gồm: - Tri thời, nghĩa là biết đúng lúc cử tội và không đúng lúc cử tội. - Như thực, nghĩa là phải biết đúng pháp mà cử tội, chứ không phải không biết mà cử tội. - Hữu lợi ích, nghĩa là biết cử tội đem lại lợi ích cho người thỉnh cầu, chứ không phải không có lợi ích. - Nhu nhuyến, nghĩa là dùng lời nói dịu dàng để cử tội chứ không thô lỗ, sân hận - Từ tâm, nghĩa là cử tội với từ tâm mà không sân hận (Đại chính 22, tr 836b).
Đức Phật dạy, một tỷ kheo phải đầy đủ năm pháp ấy, mới được phép nhận sự cầu thính của các tỷ kheo khác. Và tỷ kheo đã nhận sự cầu thính cử tội, thì không được tự ý bỏ đi nơi khác.
Cũng theo luật Tứ Phần 37, nhóm tỷ kheo sáu người đã hứa khả cầu thính cho tỷ kheo khác, rồi tự ý bỏ đi. Các tỷ kheo thanh tịnh đem việc nầy trình lên Đức Phật, Ngài dạy: “Không được hứa với người rồi tự ý bỏ đi; không được nhận lời hứa của người, rồi tự ý bỏ đi. Từ nay cho phép an cư rồi tự tứ. Cho phép tự tứ khỏi phải cầu thính. Tại sao? Vì tự tứ chính là thính” (Đại chính 22, tr 836b).
Nhưng, duyên khởi Tự tứ, theo Luật ngũ phần: Do các tỷ kheo nói với nhau rằng, chỉ có A la hán mới xứng đáng chỉ bảo cầu thính. Nhân đây, đức Phật dạy pháp Tự tứ ( Ngũ Phần Luật, Đại chính 22, tr 131b).

II -Tăng Số Và Tác Pháp
Túc số Tăng để tiến hành tác pháp yết ma tự tứ tối thiểu là năm vị tỷ kheo. Vì trong đó, một vị được Tăng bạch nhị yết ma cử làm tự tứ nhân. Và sau khi Tăng đã cử tự tứ nhân xong, thì từ vị Thượng tọa xuống đến vị tân tỷ kheo đều lần lược từng vị đối diện với vị tự tứ nhân nói lời yêu cầu chỉ điểm về tam sự gồm kiến tội, văn tội và nghi tội, để cho đương sự nếu thấy có tội, thì đúng như pháp mà sám hối. Và nếu Tăng chỉ có bốn vị, thì không thể tiến hành tác pháp yết ma cử tự tứ nhân chỉ điểm tam sự, mà chỉ thực hành pháp đối thủ tự tứ. Nghĩa là một vị tỷ kheo đối diện với một tỷ kheo khác hoặc quỳ, hoặc đứng để nói lời tự tứ. Và nếu một tỷ kheo thì chỉ có tâm niệm tự tứ.
Trong pháp tự tứ có những trường hợp được dự dục, nếu tỷ kheo có những duyên sự như pháp. Và tỷ kheo gởi dự dục với một tỷ kheo và nhờ vị ấy bạch lại với Tăng thì chỉ nói hòa hợp mà không cần phải nói thanh tịnh. Vì sao? Vì tự tứ là đương sự tự nguyện, tự giác yêu cầu trực tiếp tự tứ nhân chỉ điểm cho ba sự để sám hối cho được thanh tịnh. Nên, dự dục đối với tự tứ chỉ nói hòa hợp mà không nói thanh tịnh là vậy. Một tỷ kheo có thể nhận gởi dục tự tứ từ nhiều người. (Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 838b).
III -Tăng Pháp Tự Tứ
Tăng pháp tự tứ có hai giai đoạn tiến hành:
*- Giai đoạn tiến hành tiền phương tiện:
Sau khi khi nghe Pháp hiệu tập Tăng, các tỷ kheo như pháp tuần tự vào giới trường, sau khi mỗi vị đã an trú tĩnh tọa đúng vị trí.     Thượng tọa bỉnh pháp pháp hỏi:
-     Tăng đã họp chưa?
Duy na đáp:
-    Tăng đã họp.
Thượng tọa hỏi:
-    Hòa hiệp không?
Duy na đáp:
-    Hòa hiệp.
Thượng tọa hỏi:
-    Người chưa thọ cụ túc đã ra chưa?
Duy na đáp:
-    Đã ra.
Thượng tọa hỏi:
-    Các tỷ kheo không đến có thuyết dục tự tứ không?
Nếu có, duy na đáp: Dạ có. Có tỷ kheo,… có “gởi dục tự tứ”, xin bạch như vậy. Nếu không có, duy na đáp: Dạ không.
Thượng tọa hỏi:
-    Có ai sai tỷ-kheo-ni đến thỉnh giáo giới tự tứ không?
Nếu không, duy na đáp không. Nếu có, duy na đáp có. Và gọi tỷ-kheo-ni thọ sai vào giới trường, vị ấy đảnh lễ đại Tăng, quỳ xuống và bạch:
“Bạch Đại đức Tăng! Đệ tử chúng con, tỷ-kheo-ni Tăng, trú xứ,… hạ an cư đã xong. Ni Tăng sai chúng con tỷ-kheo-ni đến đại Tăng, vì tỷ-kheo-ni Tăng cầu nói ba sự tự tứ, là các tội được thấy, được nghe và được nghi. Ngưỡng mong Đại đức Tăng rũ lòng thương tưởng chỉ giáo. Nếu chúng con thấy có tội sẽ như pháp sám hối. (nói ba lần).
Bấy giờ trong Tăng, tỷ kheo nào thấy có điều gì cần chỉ giáo ba việc kiến, văn và nghi đối với Ni chúng thì nói, nếu không thì tất cả đều im lặng. Và sau đó Thượng tọa có lời giáo giới đối với Ni chúng rằng:
“Trong đại Tăng, từ trên xuống dưới thảy đều im lặng như vậy, thật do Ni chúng bên trong chuyên cần ba nghiệp, bên ngoài vô sự, cho nên không có điều gì trái phạm. Tuy nhiên như vậy, các vị hãy nói lại với Ni chúng, đại Tăng có giáo sắc rằng: Ni chúng như pháp mà tự tứ, cẩn thận chớ buông lung”.
Tỷ-kheo-ni thọ sai đáp:
“Y giáo phụng hành”. Rồi đảnh lễ Tăng và lui ra.
Thượng tọa hỏi:
-   Tăng nay hòa hợp để làm gì?
Duy na đáp:
-    Yết ma tự tứ.
*-  Giai đoạn Tăng tác pháp tiến hành chính thức tự tứ:
Giai đoạn nầy có ba phần như sau:
1 - Tăng Yết Ma Sai Tự Tứ Nhân:
Tự tứ nhân hay còn gọi là Ngũ đức sư. Ấy là người Tăng tác pháp Bạch nhị yết ma cử làm người tự tứ. Một lần Tăng yết ma chỉ đựợc phép cử từ một đến ba vị. Không được phép cử bốn, vì bốn vị trở lên thành túc số của Tăng. Tăng không thể cử Tăng. Tăng cử Tăng là phi pháp.
Theo Luật Tứ Phần, vị được Tăng cử làm người tự tứ phải hội đủ năm đức tính:
a -Bất ái: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội tỷ kheo khác, sau khi hạ mãn qua ba việc kiến, văn và nghi, vị nầy không có tâm thiên ái.
b -Bất sân: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội cho vị tỷ kheo khác, sau khi hạ mãn, qua ba việc kiến, văn và nghi, vị nầy không được có tâm sân hận, thù ghét.
c -Bất bố: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội cho vị tỷ kheo khác, sau khi hạ mãn, qua ba việc kiến, văn và nghi, vị nầy không được có tâm sợ hãi.
d -Bất si: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội vị tỷ kheo khác, sau khi mãn hạ, qua ba việc kiến, văn và nghi, vị nầy không được có tâm mù quáng.
     e -Tri tự tứ vị tự tứ: Nghĩa là khi nhận làm việc Tăng sai chỉ tội   vị tỷ kheo khác, sau khi mãn hạ, phải biết rõ các tỷ kheo cùng trong trú xứ, vị nào đã được chỉ tội theo pháp tự tứ và vị nào chưa được chỉ tội theo pháp tự tứ. (Đại chính 22, tr 836b).
     Đối với đức tính thứ 5 nầy, theo Ngũ phần luật 19, là “Tri thời, tri phi thời”). Biết tự tứ đúng thời và biết tự tứ không đúng thời (Đại chính 22, tr131a).
   Sau hỏi tiền phương xong, Thượng tọa bỉnh pháp tiếp tục hỏi:
-         Trong chúng có vị nhân giả nào kham năng làm người nhận tự tứ nhân không?
Vị tỷ kheo hội đủ năm đức tính cần thiết để làm người nhận tự tứ tự đáp:
-         “Tôi tỷ kheo,… kham năng”.
-         Thượng tọa bỉnh pháp Bạch nhị yết ma Tăng sai tự tứ nhân:
     Văn Yết ma như sau:
“Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận sai tỷ kheo có tên,…làm người thọ tự tứ. Đây là lời tác bạch!”.
“Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tăng sai tỷ kheo có tên,… làm người thọ tự tứ. Các Trưởng lão nào đồng ý Tăng sai tỷ kheo có tên,…làm người thọ tự tứ thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói”.
“Tăng đã chấp thuận sai tỷ kheo có tên,… làm người thọ tự tứ nhân rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc nầy tôi ghi nhận như vậy”.( Đại chính 22, tr836bc).
2- Đơn Bạch Tự Tứ:
Các tỷ kheo thọ sai, từ chỗ ngồi đứng dậy bước ra đảnh lễ Tăng. Một trong ba vị được thọ sai bạch Tăng chính thức tác pháp tự tứ.
Văn bạch:
Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay hòa hợp tự tứ. Đây là lời tác bạch”.(Đại chính 22, tr 837a).
3- Chính Thức Tự Tứ:
Thượng tọa bỉnh pháp nói tự tứ trước. Tiếp theo các vị tự tứ nhân nói tự tứ với nhau. Sau đó lần lược các tỷ kheo từ một đến ba vị nói tự tứ. Nếu tự tứ nhân đến, mà đứng, thì người nói tự tứ
có thể đứng hoặc quỳ; nếu vị tự tứ nhân quỳ, thì người nói tự tứ phải quỳ.
Văn nói tự tứ như sau:
Đại đức nhất tâm niệm. Hôm nay chúng Tăng tự tứ. Tôi tỷ kheo,… cũng tự tứ. Nếu có tội được thấy , được nghe và được nghi, nguyện Đại đức thương tưởng chỉ giáo cho tôi. Nếu tôi thấy có tội, sẽ như pháp sám hối”. (nói ba lần). (Đại chính 22, tr 837a).
Người nhận tự tứ đáp: Thiện. Người tự tứ đáp: Nhĩ.
Sau khi các tỷ kheo tuần tự tự tứ xong. Vị tự tứ nhân bước ra giữa Tăng bạch: “Tăng nhất tâm tự tứ đã xong”.
Sau khi vị tự tứ nhân bạch Tăng xong. Phần còn lại là hồi hướng.
VI - Các Pháp Tự Tứ Khác:
1- Tự tứ vắn tắt:
Nếu vì nạn duyên không đủ thời gian để Tăng tiến hành đúng Tăng pháp tự tứ, thì phải tự tứ vắn tắt. Nhưng muốn tự tứ vắn tắt thì phải yết ma.
Văn bạch: “Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay mỗi mỗi đồng loạt nói tự tứ ba lần. Đây là lới tác bạch”.( Đại chính 22, tr839a).
Do gặp một trong tám nạn duyên, thì mới tiến hành tự tứ vắn tắt. Tám nạn duyên gồm: - Nạn vua. - Nạn giặc. - Nạn lửa. - Nạn nước. - Nạn bệnh. - Nạn người. - Nạn phi nhân. - Nạn độc trùng. (Đại chính 22, tr 838c).
Hoặc do bị chướng sự, nên tiến hành tự tứ vắn tắt. Các chướng sự gồm: - Chúng đông mà giới trường lại hẹp. – Trong Tăng có quá nhiều tỷ kheo bệnh, không thể ngồi hoặc quỳ lâu. - Trời mưa lớn. - Gặp đại thí hội mà đêm đi qua đã lâu. - Chướng ngại do đấu tranh. - Hoặc bàn luận A tỳ đàm, đoán sự tỳ ni, thuyết pháp,… mà đêm đi qua đã lâu, chúng Tăng chưa đứng dậy, nên tự tứ vắn tắt. Đại chính 22, tr 838c).
Nếu không có nạn duyên và chướng sự mà tự tứ vắn tắt là phạm tác. Phạm tác là phạm vào những học xứ quy định làm mà không làm, hoặc làm sai.
2- Tự tứ đối thủ:
Nếu Tăng không đủ túc số năm người, không thể tiến hành theo Tăng pháp tự tự, thì thực hành theo tự tứ đối thủ. Nghĩa là nếu bốn người, thì một người quỳ xuống bạch với ba người; nếu ba người, thì một người quỳ xuống bạch với hai người và nếu hai người, thì hai người quỳ đối diện với nhau mà tác bạch để tự tứ.
Văn nói tự tứ đối thủ:
Ngày nay chúng Tăng tự tứ. Tôi tỷ kheo ,…  cũng tự tứ thanh tịnh”. (Đại chính 22, tr 837c).
3- Tự tứ tâm niệm:
Nếu một mình tỷ kheo, thì y hậu tề chỉnh, tâm niệm vào giới trường hay quỳ trước bàn Phật, nghĩ đến ngày tự tứ  Tăng, miệng nói: “Hôm nay ngày chúng Tăng tự tứ, tôi tỷ kheo,… thanh tịnh”. (nói  ba lâần ). (Đại chính 22, tr 837c- 838a1).
V -Triển Hạn Nhật Kỳ Tự Tứ:
Tăng triển hạn nhật kỳ tự tứ có hai trường hợp:
1-   Do tu tập:
Do thời gian an cư, các tỷ kheo Tăng tu tập về giới, định, tuệ một cách tinh cần, nên có nhiều an lạc. Vì vậy muốn kéo dài thêm thời gian an cư để thuận lợi cho sự đoạn trừ các lậu hoặc và chứng đắc các Thánh quả Niết bàn. Trường hợp nầy, Tăng có thể tác pháp yết ma triển hạn nhật kỳ tự tứ tối đa là một tháng.
Tăng trong trú xứ tập hợp tại giới trường, Thượng tọa bỉnh pháp bạch Tăng:
“Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng. Tăng ngày hôm nay không tự tứ. Đợi đủ bốn tháng an cư xong sẽ tự tứ. Đây là lời tác bạch”. (Đại chính 22, tr 840b).
2-   Do Tăng chưa được thanh tịnh và hòa hợp:
Do các tỷ kheo ở trong cùng một trú xứ có tránh sự mà chưa như pháp dập tắc, hoặc do có các tỷ kheo từ trú xứ khác đến, Tăng tại trú xứ an cư chưa sắp xếp yên ổn, nên triển hạn nhật kỳ tự tứ. Văn bạch Tăng:
“Đại đức Tăng, xin lắng nghe! Ngày hôm nay Tăng không tự tứ. Đợi đến ngày 15 (hoặc 16) tháng đến sẽ tự tứ. Đây là lời tác bạch”.( Đại chính 22, tr 840c).
Nếu đã hết kỳ triển hạn mà sự tranh chấp giữa các tỷ kheo chưa được dập tắt như pháp, Tăng có thể triển hạn thêm 15 ngày nữa. Hết thời kỳ triển hạn mà Tăng trong trú xứ chưa hòa hợp, hay các tỷ kheo khách cũng chưa rời khỏi trú xứ, thì phải y luật cưỡng bức các tỷ kheo tránh sự phải hòa hợp để tự tứ, nếu không được, các tỷ theo thanh tịnh đồng ra khỏi cương giới của trú xứ kết tiểu giới để tự tứ. Tự tứ xong, giải tiểu giới.
 VI - Các Trường Hợp Ngăn Tự Tứ:
1-   Phạm Tăng tàn:
Trong trú xứ có tỷ kheo phạm Tăng tàn, tùy theo mức độ phạm tội mà Tăng yết ma cho vị ấy hành pháp đúng theo mức độ phạm tội rồi, mới tự tứ.
2-   Phạm Ba dật đề:
Trong trú xứ có tỷ kheo phạm học giới, có người bảo rằng, đó là phạm Ba dật đề, hoặc có người bảo rằng, đó là phạm Ba la đề đề xá ni, Tăng cử một tỷ kheo thanh tịnh, đến dẫn vị tỷ kheo phạm Ba dật đề ấy, hoặc Ba la đề đề xá ni ấy, ra khỏi vị trí giới trường mà mắt thấy Tăng tác pháp, nhưng tai không nghe được lời tác pháp của Tăng, khuyên bảo vị tỷ kheo phạm Ba dật đề ấy sám hối. Sau đó vị tỷ kheo thanh tịnh dẫn vị tỷ kheo phạm giới ấy đến trước Tăng thưa rằng: “ Tỷ kheo phạm tội, tôi đã bảo sám hối rồi”. Phải phương tiện tác pháp như vậy rồi mới tự tứ.
3-   Phạm Thâu lan giá:
Trong một trú xứ, có tỷ kheo phạm Thâu lan giá, có người bảo rằng đó là phạm Thâu lan giá, hoặc có người bảo rằng, đó là phạm Ba la di, khiến có thể dẫn đến sự tranh cãi, không hòa hợp. Nếu sợ bản thể của Tăng bị vỡ, thì việc tự tứ của Tăng phải dời qua một thời gian thích hợp khác.
4-   Ngăn Tự tứ vô căn cứ:
Ngăn cản tỷ kheo không có căn cứ, không đưa ra được nguyên nhân, việc ngăn cản như vậy không thành. Tỷ kheo không thanh tịnh không được ngăn cản tỷ kheo thanh tịnh tự tứ.
5-   Ngăn tự tứ có căn cứ:
Ngăn cản tỷ kheo tự tứ có căn cứ, có tác nhân, gọi là ngăn tự tứ có căn cứ.
6-   Ngăn tự tứ khi đang nói:
Ngăn tự tứ khi đang nói một lần hoặc hai lần, gọi là ngăn tự tứ khi đang nói. Khi chưa nói hoặc đã nói xong, không thể gọi là ngăn tự tứ.
7-   Ngăn tự tứ bởi người không thanh tịnh:
Người không thanh tịnh về thân, về ngữ, về ý, không có trí, không biết rõ ràng, không biết hỏi, không biết trả lời, đối với những người như vậy không thể ngăn tự tứ, nên Tăng vẫn tiến hành tự tứ.
8-   Ngăn tự tứ bởi thân nghiệp thanh tịnh:
Người thân nghiệp thanh tịnh, nhưng ngữ nghiệp không thanh tịnh, ý nghiệp không thanh tịnh, không có trí, không có nhận biết rõ ràng, không biết hỏi, không biết trả lời, đối với người như vậy, không thể ngăn tự tứ, nên Tăng vẫn tiến hành tự tứ.
9-   Ngăn tự tứ với thân nghiệp và khẩu nghiệp thanh tịnh:
Đối với người thân nghiệp, khẩu nghiệp thanh tịnh, nhưng ý nghiệp không thanh tịnh, không có trí, không nhận biết rõ ràng, không biết hỏi, không biết trả lời, đối với người như vậy, không thể ngăn tự tứ, nên Tăng vẫn tiến hành tự tứ.
10- Ngăn tự tứ với ba nghiệp thanh tịnh, có trí, có phân minh, có biết hỏi và biết đáp:
Nếu vị tỷ kheo nầy ngăn vị tỷ kheo khác không cho tự tứ, các tỷ kheo khác, nên hỏi vị tỷ kheo ngăn ấy rằng: Vì sao Thầy ngăn tỷ kheo nầy tự tứ? Vì do phạm giới, phá kiến, hay phá oai nghi?
Vì ấy trả lời, vì phạm giới. Các tỷ kheo, nên hỏi là phạm giới nào? Nếu nói phá kiến, thì hỏi phá kiến nào? Nếu nói phá oai nghi, thì hỏi phá oai nghi nào? Nếu vị ấy trả lời là do có một trong ba mà ngăn. Nếu hỏi cặn kẽ một trong ba ấy, không trả lời được cụ thể, Nên, đối với giới, họ nói phạm Ba la di, thì Tăng chỉ xử lý ngang mức tội Tăng tàn, rồi Tăng mới tự tứ. Nếu họ nói tội Tăng tàn, thì Tăng chỉ xử lý ngang mức tội Ba dật đề, rồi sau đó tự tứ,… Nghĩa là vị ấy chỉ đưa ra tội danh mà không đưa ra đầy đủ các yếu tố phạm tội, thì Tăng sẽ xử trị dưới mức tội của người ấy đã đưa ra để ngăn người phạm tội trước khi tự tứ.  Và nếu người ngăn tự tứ có trí trả lời rõ ràng, chứng cứ cụ thể về tội Ba la di của người phạm giới để ngăn tự tứ, thì Tăng phải làm phép diệt tẫn người phạm tội ấy, trước khi tự tứ.
11- Ngăn tự tứ từ ba sự:
Ngăn tự tứ từ ba sự gồm: Kiến, văn và nghi. Nếu do từ ba sự nầy mà ngăn tự tứ? Các tỷ kheo hỏi tỷ kheo ngăn tự tứ rằng: Trong ba sự, Thầy do sự nào mà ngăn tự tứ?  Nếu vị ấy trả lời từ một trong ba sự một cách cụ thể hay không cụ thể, thì phải tùy theo những chứng cứ trong sự trả lời của vị ấy, sau đó đúng như pháp mà xử trị, rồi tự tứ. (Tham khảo Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 839a -840b).
VII -Tự Tứ Liên Hệ Giữa Cựu và Khách:
Theo Luật Tứ Phần 38, tự tứ liên hệ giữa cựu trú tỷ kheo và khách tỷ kheo như sau:
1-   Trú xứ có khách tỷ kheo đến với số lượng nhiều:
Ngày tự tứ, trú xứ nào có khách tỷ kheo đến, các khách tỷ kheo biết những cựu trú tỷ kheo chưa vào giới trường, nhưng họ nói rằng,: “Chúng ta có năm người hay hơn năm người, có thể tác pháp yết ma tự tứ”. Và họ liền tác pháp yết ma tự tứ. Trong khi họ tác pháp yết ma tự tứ, các cựu trú tỷ kheo đến giới trường với số ít, nếu là hàng Thượng tọa, thì theo thứ tự của hàng Thượng tọa mà tự tứ. Nếu là hàng Hạ tọa, thì theo thứ tự của hàng Hạ tọa mà tự tứ.
Nếu những cựu trú tỷ kheo đến giới trường với số lượng ít, các khách tỷ kheo đã tự tứ xong, cả chúng chưa đứng dậy, hay hầu hết chưa đứng dậy, hoặc đều đã đứng dậy, thì các cựu trú tỷ kheo phải nói: “Thanh tịnh tự tứ”. Nếu không nói như vậy, là sai luật sẽ bị xử trị như pháp.
2-   Trú xứ có tỷ kheo khách đến với số lượng bằng:
Nội dung như điều 1, nhưng số lượng cựu trú tỷ kheo đến giới trường bằng số lượng của khách tỷ kheo, thì các khách tỷ kheo, nên tác pháp cùng tự tứ lại, nếu không là sai luật, sẽ bị xử trị như pháp.
3-   Trú xứ có tỷ kheo khách đến với số lượng ít:
Nội dung như điều 1 và 2, nhưng số lượng cựu trú tỷ kheo đến giới trường nhiều, số lượng tỷ kheo khách ít, dù tỷ kheo khách tự tứ rồi, cũng nên cùng với các tỷ kheo cựu trú tự tứ lại, nếu không là sai luật, sẽ bị xử trị như pháp.
4-   Trú xứ có cựu trú tỷ kheo nhiều, khách tỷ kheo ít:
Ngày tự tứ, trú xứ nào, có các cựu trú tỷ kheo nhiều, họ đến giới trường và họ biết rằng, các tỷ kheo khách chưa đến, nhưng họ nói: “Chúng ta có năm người hay hơn năm người có thể tác pháp yết ma tự tứ”. Trong khi họ tác pháp yết ma tự tứ, các tỷ kheo khách đến với số lượng ít, nếu là hàng Thượng tọa, thì theo thứ tự của hàng Thượng tọa mà tự tứ; nếu là hàng Hạ tọa, thì cứ thứ tự theo hàng Hạ tọa mà tự tứ.
Nếu khi tỷ kheo khách đến tự tứ rồi, nhưng cả chúng chưa đứng dậy, hoặc số đông chưa đứng dậy, hoặc đều đã đứng dậy, thì các tỷ kheo khách đến với số lượng ít phải nói: “Thanh tịnh tự tứ”. Nếu không nói như vậy là sai luật, nên sẽ bị xử trị như pháp.
5-   Trú xứ có số cựu tỷ kheo bằng số lượng tỷ kheo khách:
Nội dung như điều 4, nhưng số lượng cựu tỷ kheo và tỷ kheo khách bằng nhau, thì các tỷ kheo cựu với các tỷ kheo khách
nên cùng với các tỷ kheo khách tác pháp tự tứ lại, dù đã đứng dậy hay chưa đứng dậy. Nếu các tỷ kheo cựu không tác pháp tự tứ lại là sai luật sẽ như pháp xử trị.
6-   Trú xứ số cựu tỷ kheo ít, số lượng tỷ kheo khách nhiều:
Nội dung như điều 4 và 5, nhưng số lượng cựu tỷ kheo ít, số lượng tỷ kheo khách nhiều, số cựu tỷ kheo dù tác pháp tự tứ rồi, cũng nên cùng với tỷ kheo khách tác pháp tự tứ lại. Nếu không là sai luật, sẽ như pháp xử trị.
7-   Trú xứ cựu tỷ kheo có treo dấu hiệu:
Nếu ngày tự tứ, tỷ kheo khách đến nơi một trú xứ nào đó, thấy các tỷ kheo cựu trú có treo những dấu hiệu đã tự tứ, mà không tìm hỏi, liền tác pháp yết ma tự tứ. Tác pháp yết ma tự tứ như vậy là bất thành mà lại bị tội.
Nếu thấy rồi, liền tìm. Tìm được các tỷ kheo cựu trú rồi, cùng nhau hòa hợp tác pháp yết ma tự tứ. Tác pháp yết ma như vậy là thành tựu,...
8-   Tỷ kheo ni, thức xoa ma na, Sa di ni đều không được phép ngăn tác pháp yết ma tự tứ của tỷ kheo. Các tỷ kheo không được trước tỷ kheo ni, Thức xoa ma na, Sa di ni, tác pháp yết ma tự tứ hoặc ngăn tự tứ.
9-   Các cư sĩ không được ngăn tác pháp tự tứ của các tỷ kheo và các tỷ kheo không được tác pháp yết ma tự tứ và ngăn tự tứ trước mặt các cư sĩ.
Bấy giờ vua Ba tư nặc sai quân lính đến hộ vệ chúng Tăng. Các tỷ kheo nói với binh lính rằng: “Quý vị nên đi ra ngoài một chút, chúng tôi muốn tác pháp yết ma tự tứ”.
Quân lính nói: “ Nhà vua sai chúng tôi đến đây để hộ vệ chúng Tăng, nên chúng tôi không dám rời đi chỗ khác”.
Các tỷ kheo liền thưa đức Phật việc ấy, Ngài dạy: “Các Thầy nên yêu cầu họ tránh một lần nữa. Nếu họ tránh thì tốt, nếu họ không tránh, thì các tỷ kheo nên đến chỗ mà họ không thấy không nghe để tác pháp yết ma tự tứ, chứ không được ở trước người chưa thọ đại giới mà tác pháp yết ma tự tứ”. (Tham khảo Tứ Phần Luật 38, Đại chính 22, tr 841a – 843b).
VIII - Tránh Những Sai Lầm Khi Thực Hành Pháp Tự Tứ
Theo Luật Tứ Phần 37, 38, những sai lầm trong khi tự tứ cần phải tránh như sau:
1-   Tránh đồng loạt tự tứ gây nên ồn ào. Tự tứ từng người một.
2-   Tự tứ theo Tăng Pháp, tỷ kheo phải tự tứ từ tự tứ nhân, không được tùy ý tự tứ.
3-   Không được ngồi tại chỗ để tự tứ, phải rời chỗ ngồi và quỳ để tự tứ.
4-   Thượng tọa rời chỗ ngồi và quỳ để tự tứ, tăng tỷ kheo cũng phải rời chỗ ngồi và quỳ để tự tứ.
5-   Không được có ý nghĩ lén nói tự tứ, sợ tỷ kheo khác, vì mình tác yết ma hoặc ngăn mình tự tứ. Phải nói tự tứ một cách rõ ràng, đầy đủ, khiến cho người khác nghe được.
6-   Không được có ý nghĩ, ta nên tự tứ nhanh; nếu không, tỷ kheo khác vì ta tác yết ma ngăn tự tứ. Đức Phật cho phép an cư rồi thong thả tự tứ.
7-   Không được nói tự tứ một lần, phải nói tự tứ ba lần.
8-   Không được lật ngược y, quấn y nơi cổ, trùm trên đầu hoặc phủ cả hai vai để tụ tứ; không được mang dép hoặc ngồi trên giường hoặc trên đất để tự tứ. Phải trạc y bên phải, quỳ chắp tay nói lời tự tứ. Tỷ kheo bệnh, thì tùy duyên thích hợp để tự tứ.
9-   Tự tứ không được ngồi ở ngoài thuyết giới đường. Tự tứ nhân phải bạch Tăng, trước khi nói tự tứ.
10- Không được tự tứ phi pháp biệt chúng. Không được tự tứ phi pháp hòa hợp chúng. Không được tự tứ như pháp biệt chúng. Phải tự tứ như pháp hòa hợp chúng.
11- Trong trú xứ có vị tiền an cư, có vị hậu an cư thì nhật kỳ tự tứ phải thuận theo số đông để tự tứ.
12- Tự tứ  vào ngày mười bốn hoặc rằm, sau giờ Đại thực hay tiểu thực.
13- Vì hoàn cảnh, nếu nơi không có giới trường, Thượng tọa phải tập Tăng, bạch nhị yết ma kết tiểu giới với không gian vừa đủ cho các tỷ kheo tự tứ ngồi kín vòng, để tác pháp tự tứ và sau khi tự tứ xong, phải bạch nhị yết ma giải tiểu giới trước khi đi.
14- Tăng năm vị, trong đó có một người thọ dục, thì không được tác pháp bạch nhị yết ma cử tự tứ nhân. Vì không đủ túc số Tăng như pháp.
15- Tăng chỉ có bốn vị hiện diện, không được nhận dục của người thứ năm, tức là người vắng mặt. Nếu chỉ có ba người, không được nhận gởi dục của người thứ tư. Phần còn lại cũng nên hiểu như vậy.
16- Tâm niệm tự tứ không có dự dục.
17- Khi tự tứ không biết tội, không biết người, nhưng sau khi tự tứ xong lại biết tội, biết người. Tuy vậy, nhưng không được đem những việc đã qua để cử tội lại.
Khi tự tứ không biết tội, nhưng biết người. Tự tứ rồi biết tội, biết người, nhưng không được đem việc cũ của người mà cử tội lại.
Khi tự tứ biết tội, nhưng không biết người. Nhưng, nếu tự tứ rồi không được đem việc cũ của người mà cử tội lại. (Tham khảo Tứ Phần Luật 37, 38, Đại chính 22, từ tr 836c – 840).
IX - Sau Tự Tứ:
 Sau tự tứ, các tỷ kheo có thể rời khỏi trú xứ an cư để đi hoằng đạo, nhưng trước khi các tỷ kheo rời khỏi trú xứ, Tăng phải tác pháp yết ma giải đại giới an cư và kết lại đại giới của trú xứ. Vì khi an cư Tỷ kheo Tăng các nơi về tập trung đông tại trú xứ, do đó phải yết ma mở rộng đại giới, nay xuất hạ các tỷ kheo tùy duyên hoằng hóa, nên phải kết lại đại giới của trú xứ cho thích hợp.
Tăng có thể tác pháp thọ ca thi na y, để tiện việc cho các tỷ kheo cất giữ vải trong vòng ba mươi ngày đủ để may y mới, không bị phạm vào các học xứ quy định liên hệ đến việc chứa vải và rời y để nghỉ qua đêm.
Và sau khi an cư xong, thì Tăng phân chia bình đẳng các lợi dưỡng đến các tỷ kheo, do tín đồ cúng dường suốt ba tháng, sau khi đã sử dụng cho việc an cư của Tăng còn dư lại.
X - Chánh Pháp Tồn Tại
Chánh pháp tồn tại đúng ý nghĩa và có lợi ích thiết thực cho thế gian hay không là vai trò của Tăng đoàn. Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợp và thanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợp và thanh tịnh. Hòa hợp và thanh tịnh là bản thể của Tăng đoàn và là pháp lý tồn tại của tổ chức giáo đoàn đệ tử của Đức Thế Tôn trên thế gian này.
 Sự tồn tại và phát triển của Tăng đoàn dựa trên bản thể hòa hợp và thanh tịnh, đó là sự tồn tại chuyển tải đúng nội dung của chánh pháp. Chánh pháp tồn tại và được chuyển vận từ ý nghĩa này mà lan rộng từ một trú xứ đến nhiều trú xứ, từ một quốc gia đến toàn thể thế giới.
Tuy rằng, các tỷ kheo sinh hoạt nhiều trú xứ và nhiều quốc gia khác nhau, có những dị biệt về phong tục tập quán, nhưng họ thống nhất với nhau về một bậc Thầy giác ngộ, đó là Đức Thế Tôn. Họ thống nhất với nhau về Pháp là Pháp Bát Chánh đạo. Họ thống nhất với nhau về bản thể tỷ kheo thành tựu từ pháp bạch Tứ yết ma. Họ thống nhất với nhau về Tăng là bốn tỷ kheo trở lên cùng sinh hoạt với nhau trong bản thể hòa hợp và thanh tịnh. Họ sống hòa hợp và thanh tịnh với nhau trong các Tăng sự thuyết giới, an cư, tự tứ và các pháp sự khác.
Thống nhất của Tăng đoàn như vậy, không phải đơn thuần là thống nhất về mặt tổ chức và hành chánh mà thống nhất ngay nơi nguồn gốc và bản thể. Bất cứ pháp gì có cùng một nguồn gốc và bản thể, tự nó là thống nhất.
Ở trú xứ nào, không có các tỷ kheo cùng nhau hòa hợp, thanh tịnh, không cùng nhau thuyết giới, an cư và tự tứ đúng pháp, thì trú xứ ấy xem như không có Tăng bảo trú trì và ở xứ sở đó Chánh pháp chưa được chuyển vận, mặt trời Chánh pháp chưa được sáng lên, ruộng đồng Chánh pháp chưa được cày xới, quần chúng trú xứ ấy lấy ruộng ở đâu mà gieo trồng hạt giống phước đức?
Do đó, Pháp an cư của Tăng từ Đức Thế Tôn chế định; Pháp tự tứ của Tăng cũng từ Đức Thế Tôn chế định. Pháp ấy phù hợp với an tịnh của Niết bàn. Và Tăng chỉ đúng nghĩa là Tăng, khi mọi sinh hoạt của Tăng đều được biểu hiện từ nơi Phật và Pháp. Pháp an cư của Tăng là một trong những biểu hiện cụ thể ấy. Và do sự biểu hiện ấy mà Chánh pháp trường tồn, làm cho thế gian bớt tăm tối và là phước điền cho thế giới chư thiên và loài người gieo trồng phước đức vậy.
Thích Thái Hòa

Thế nào là Tự Tứ ?


Hằng năm sau 3 tháng kiết hạ an cư, chư tăng làm lễ tự tứ vào dịp Vu lan. Rằm tháng 7. Vậy Tự Tứ là gì ? Tự Tứ là dịch nghĩa chữ Phạn "Paravarana" phiên âm là "Bát hòa la" Từ này còn được dịch là tùy ý, thỉnh thỉnh. Nghĩa là sau khi kết thúc an cư, mỗi vị tỳ kheo phải tự nguyện đưa mình ra trước đại chúng, nhờ các vị đồng phạm hạnh chỉ cho biết những lỗi lầm ta đã phạm phải mà các vị ấy đã thấy, nghe hoặc nghi. Nếu tự mình kiểm điểm thấy đúng sự thật, ta sẽ thành khẩn sám hối để được thanh tịnh. Nhờ vậy, mọi người đều trở nên hoàn thiện, xứng đáng là hàng trưởng tử của Như Lai. Phương thức xây dựng này hơi khác với thế thường. Bởi vì, thường tình chúng ta rất giàu lòng tự ái, không mấy ai muốn người khác biết khuyết điểm của ta, chứ đừng nói là có thể chấp nhận để cho họ nêu ra những lỗi lầm mà ta đã phạm. Giả sử có ai đó động đến tên tuổi, tự ngã của ta thì ta sẽ phản ứng lại bằng nhiều hình thức "ăn miếng trả miếng" ngay lập tức, vì kẻ khác chạm đến nhược điểm của ta, đó là một sự xúc phạm khó mà tha thứ được. Thế nên, phương Tây có câu châm ngôn : "Người ta có thể tha thứ cho kẻ thù của mình, chứ không ai có thể tha thứ cho kẻ làm nhục mình". Điều đó đủ nói lên thiện chí xây dựng và phục thiện là những gi hiếm có trên cõi đời này. Vì vậy, để tránh những rắc rối phiền toái khi chung sống với xã hội, có một số người đã chủ trương một cực đoan khác, tức là chỉ đề cao việc tốt của thiên hạ mà không đá động gì đến việc xấu của tha nhân, bằng một thái độ tỏ ra rất cao thượng, như nói : "Người quân tử chỉ ca ngợi những đức hạnh của người, chứ không đề cập đến lỗi lầm của họ" (Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác). Từ quan điểm đó, họ rút ra một nguyên tắc sống : "mình tự quét xong sương trước cửa, mặc ai để đọng tuyết trên nhà" (các nhân tự tảo môn tiền tuyết, mạc quản tha nhân ốc thượng sương), chủ trương này mới nghe qua thật cao thượng và hấp dẫn, nhưng lại dễ rơi vào tình trạng cầu an và tiêu cực. Vì hành vi đó chỉ nhằm mục đích bảo đảm an toàn cho bản thân mình, còn trách nhiệm đối với nhân quần xã hội, cùng xây dựng cho nhau, giúp nhau tiến bộ, thì hoàn toàn chưa ổn.
Vượt lên trên những cách xử trí của thế thường, hàng xuất gia áp dụng phương thức Tự Tứ một cách tinh tế và đầy lòng vị tha. Tự tứ là nhằm mục đích xây dựng Tăng đoàn có một đời sống cao khiết, thanh tịnh và an lạc thực sự. Bởi vì, Tăng đoàn là một tập thể sống hòa hợp, vô ngã, theo duổi một mục đích tối thượng là giác ngộ và giải thoát. Mà muốn thực sự giải thóat giác ngộ thì nỗ lực đọan trừ tận gốc ngã chấpba độc tham sân si. Vì ba độc và ngã chấp vốn là những trở lực chủ yếu trên tiến trình hướng đến giác ngộ. Điều đó bất cứ người xuất gia nào cũng đều quán triệt.
Thế nên 3 tháng an cư là khỏang thời gian lý tưởng nhất để tu tập, dẹp trừ các chướng ngại ấy. Và nếu như chưa dẹp trừ tận gốc, thì ít nhất cũng trấn áp được chúng đến một mức độ nào đó để giành lấy quyền tự chủ. Khi đã có tự chủ, ta sẽ dễ dàng hành động theo một chiều hướng vô ngã, không cố chấp, với một tấm lòng vị tha, có trí tuệ sáng suốt soi đường.
Do đó, khi tự tứ, mọi người điều có chung một niềm tin : tin mình tin người. Tin mình nghĩa là trãi qua ba tháng tu học, mình tiến bộ chứ không thoái hóa, nghiêm túc chứ không buông lung, tinh chuyên chớ không biếng nhác. Chân thực chứ không hư dối... Còn tin người là tin các vị dồng phạm hạnh là những người vị tha chứ không ích kỷ, vô tư chứ không thiên vị, từ mẫn chứ không ác ý, xây dựng chứ không đả kích...
Cụ thể là người đứng ra cử tội (chỉ lỗi của người khác) phải hội đủ năm đức tính :

  • 1- Nói đúng lúc, không nói phi thời.

  • 2- Thành thực, không gian dối.

  • 3- Vì lợi ích, không phải vì tổn hại.

  • 4- Vì từ tâm, chứ không có ác ý.

  • 5- Nói năng nhã nhặn, không nói thô lỗ. Đó là những điều kiện cần thiết của người đứng ra cử tội. Còn người nhận tự tứ, tức là người mà mình tin cậy nhờ họ chỉ giáo, cũng phải hội đủ năm đức tính :

  • 1- Không thiên vị.

  • 2- Không nổi nóng.

  • 3- Không si mê.

  • 4- Không sợ sệt.

  • 5- Biết ai tự tứ rồi, ai chưa tự tứ. Đó là những nguyên tắc do luật định, nhằm bảo đảm cho việc tự tứ đạt đến kết quả mỹ mãn nhất.
    Hơn nữa, luật còn quy định người đang bệnh không được ngăn cản sự tự tứ của một bệnh nhân khác. Người đang bệnh cũng không được ngăn cản sự tự tứ của một người khỏe mạnh. Và trái lại, người khỏe mạnh cũng không được ngăn cản sự tự tứ của một bệnh nhân. Nếu ai vi phạm các cấm chế trên thì phạm tội Đột cát la, tức hành vi xấu (Tứ Phần Luật, quyển 38, Đ22, tr.800a). Đó là những biện pháp chế tài cần thiết liên quan đến trường hợp những người bệnh. Ngoài ra, một người khi muốn cử tội hay ngăn cản người khác tự tứ, thì ba nghiệp thân, khẩu ý phải thanh tịnh. Nếu một trong ba nghiệp không thanh tịnh, thì không có quyền cử tội bất cứ ai. Và nếu có cử tội, thì lời cử tội ấy được coi như vô giá trị. Do đó, chỉ có những người ba nghiệp thanh tịnh mới được phép cử tội người khác. Nhưng khi cử tội ai về các trường hợp hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nghi, phải trình bày rành mạch, có chứng cứ xác thực, thì sự cử tội ấy mới có giá trị. Trái lại, nếu trình bày không rõ ràng, khi bị chất vấn mà trả lời ấp úng, không trôi chảy, thì bấy giờ vị luật sư sẽ kết tội ngược trở lại vị ấy. Nghĩa là, nếu vị ấy tố cáo người khác phạm tội Tăng tàn, thì sẽ kết vị ấy tội Thâu lan giá v.v... tức là kết ông ta phạm một tội danh thấp hơn một bậc đối với tội mà ông đã tố cáo người khác (Luật Tứ Phần Đ22, tr839c) Những quy định này nhằm ngăn chặn trường hợp tố cáo vu vơ, bảo đảm thiện chí xây dựng một cách vô tư, khách quan, đạt đến hiệu quả tốt nhất, tránh tối đa những lục đục xáo trộn không hay có thể xảy ra trong nội bộ Tăng đoàn.
    Một điểm đáng bàn nữa là vấn đề bất hồi tố trong việc tự tứ. Khi tự tứ nếu có một tỷ kheo nào đó đã phạm tội mà đại chúng không hay biết, đến khi tự tứ xong, Tăng chúng mới phát hiện tội phạm của vị ấy, thì bấy giờ tội phạm đó coi như thông qua, không ai được phép khơi trở lại. Nếu ai còn khơi lại lỗi lầm của vị ấy, thì Tăng chúng sẽ căn cứ theo luật mà trừng trị kẻ sinh sự này; trừ trường hợp tội phạm mà người kia gây ra còn di hại nặng nề đến hiện tại. Như vậy, việc tự tứ mang một ý nghĩa chân thành xây dựng và khuyến khích, chứ không nhằm mục đích trách phạt hay chế tài.
    Vã lại, đặc tính của Tăng đoàn là thống nhất, thanh tịnhhòa hợp. Nếu thiếu các yếu tố này thì ý nghĩa của Tăng bảo sẽ không còn trọn vẹn. Thế nên, người xuất gia ngoài bổn phận nỗ lực tu học, hoàn thiện nhân cách của chính mình, còn có trách nhiệm bảo vệ thanh danh cho tập thể, trong tinh thần xây dựng, tôn trọng, nâng đỡ với ý thức "một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ".
    Ngày Tự Tứ thường nhằm đúng dịp lễ Vu Lan báo hiếu. Đó là một ngày lễ truyền thống trọng đại của cả dân tộc, mọi người điều có cơ hội tốt để báo đáp bốn ân sâu nặng. Riêng các Tỳ kheo còn được thêm một tuổi đạo, gọi là tuổi hạ. Tuổi hạ khác với tuổi đời; tuổi đời được tính bằng chiều dày của thời gian, còn tuổi hạ là do kết tinh những công hạnh cao đẹp, những thành quả do chuyên tâm tu học suốt 3 tháng hạ, khiến cho lòng từ trải rộng, trí tuệ mở mang, thế nên khi giải hạ, có người đã có thể đạt đến đích cứu cánh, còn lại phần đông đang tiến gần đến mục tiêu đã định hướng, với những hành trang cần thiết. Hành trang đó là niềm tin, đạo lực, sự quyết tâm và trí tuệ soi đường.
    Trong dịp này, người xuất gia cảm thấy hân hoan đã đành mà các phật tử tại gia cũng vô cùng phấn khởi. Vì trãi qua 3 tháng hạ, họ đã hoàn thành trọng trách hộ trì Tăng bảo, giúp đỡ chư tăng tu học. Do đó, họ cũng có quyền chia sẻ một phần nào thành quả mà chư Tăng đã gặt hái được. Hơn nữa, chính bản thân các phật tử cũng thu họach nhiều lợi ích qua sự gần gũi chư Tăng trong mùa Hạ để học hỏi chánh pháp và vun bồi giới hạnh. Nhờ vậy mà phiền não mỗi lúc dần vơi, ánh đạo ngày thêm bừng sáng. Ngày Tự Tứ cũng là ngày chư Phật hoan hỷ. Bởi vì các trưởng tử Như Lai đã vâng hành Thánh Giáo, để trau giồi thân tâm, tịnh tu phạm hạnh, nổ lực thành tựu mục đích cao cả mà đấng Đại Giác Thế Tôn đã bi mẫn dạy truyền. Khi mà cuộc đời này còn có những người xả thân hành đạo, hy sinh mọi hưởng thụ phù hoa, quyết tâm truy tìm chân lý, đạt đến chiến thắng, ca khúc khải hoàn, thì quả thật trần gian này vẫn vô cùng tốt đẹp, đáng cho ta trân trọng và yêu quý biết bao./.
    Thích Phước Sơn