Tuesday, December 14, 2010

Dấu ấn của Thầy (Lễ đại tường tưởng niệm cố HT Thích Quảng Tâm ngày 21/04/AL)




Vào những năm giữa thập niên 90, sau khi Trường trung cấp Phật học thành phố Hồ Chí Minh được dời về Vĩnh Nghiêm Q.3, chùa Thiên Minh tiếp tục sự nghiệp đào tạo tăng ni ở cấp thấp hơn – Sơ cấp Phật học. Lúc ấy, với tư cách là phó đại diện Phật giáo huyện Thủ Đức kiêm chủ nhiệm lớp Sơ cấp, thầy đã vận dụng những kiến thức và kinh nghiệm của thầy trong những năm tu học tại các Phật Học viện Hải Đức, Huệ Nghiêm,… vào sự nghiệp giáo dục. Kiến thức và kinh nghiệm ấy cộng với tầm nhìn và tâm quảng đại, thầy đã tận tâm, tận lực điều hành Phật sự đưa đến sự thành công được ghi nhận và đánh giá rất cao bởi chư tôn đức tăng ni huyện nhà. Trong thời gian hơn 10 năm gắn bó với lớp Sơ cấp các khóa, thầy đã để lại những dấu ấn khó phai trong lòng chư tôn đức tăng ni – những người cùng cam cộng khổ với thầy và nhất là hàng tăng ni trẻ - những người học trò của thầy. Những dấu ấn ấy có thể nói vẫn là bước đi tiên phong trên tinh thần tu học và cần được phát huy ở môi trường giáo dục Phật giáo. Những dấu ấn ấy là gì?
Khi tiếp nhận công tác Phật sự, thầy bắt tay vào công việc hoạch định chương trình giảng dạy, cung thỉnh chư giáo thọ sư, chiêu sinh học viên, v.v…Với niềm tin và sự tín nhiệm, thầy đã cung thỉnh các vị đồng sự vào các vị trí công tác điều hành và lớp học sớm đi vào hoạt động nề nếp, tạo sự phấn khởi lớn trong lòng tăng ni. Dấu ấn đầu tiên thầy để lại là tinh thần hy sinh, bất vụ lợi. Noi theo chư vị tổ đức, thầy chủ trương điều hành Phật sự bằng sự ủng hộ của chư tôn túc và sự trợ duyên của Phật tử xa gần, thay vì thu học phí. Để thực hiện điều đó, thầy phải lặn lội đi khắp các chùa chiền trong huyện để vận động, thuyết phục sự ủng hộ của chư tôn đức. Có lẽ, thấy được tấm lòng hy sinh và cách làm minh bạch của thầy, chư tôn đức tăng ni hết lòng ủng hộ và tán thán. Đó là nguồn động viên lớn lao cho những người làm công tác Phật sự như thầy. Nhờ vậy, không khí tu học của tăng ni sinh rất tốt và chư tôn đức tăng ni trong ban điều hành cũng như trong huyện rất hoan hỉ và đoàn kết.
Dấu ấn thứ hai thầy để lại là tổ chức các hội thi diễn giảng, làm báo tường. Với tầm nhìn sâu rộng, thầy không chỉ mong mỏi tăng ni sinh học tốt chương trình quy định mà còn tạo điều kiện tốt cho họ phát huy năng lực diễn giảng, viết bài. Một việc làm vừa để phát hiện mần non nhân tài vừa để xác định nhiệm vụ thiết yếu của một người tu – làm thầy đích thực. Mô hình sinh hoạt không mới nhưng cách tổ chức bài bản chu đáo và được áp dụng lần đầu tiên tại huyện nhà nên tạo được sự chú ý và thu hút sự ủng hộ của chư tôn đức và Phật tử. Sự thành công của hội thi đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng tăng ni và Phật tử, nhất là những tăng ni sinh. Nó như là một ngày hội cho tăng ni sinh để được hồi hộp, một chút lo âu, mừng vui theo nhịp đập của con tim, và tự tin học hỏi lẫn nhau qua những kỳ thi như thế. Nó mãi là những kỷ niệm đẹp trong lòng tăng ni sinh mà mỗi khi nhắc đến không ai khỏi bất chợt nuối tiếc, hoài niệm. Vâng, những tâm trạng rất thường ấy lại là những kỷ niệm tốt đẹp nhất đi suốt cuộc đời tăng ni sinh, động viên và sách tấn họ vượt qua khó khăn khi nghĩ đến những người đã tạo ra những giây phút thiêng liêng tốt đẹp ấy.
Không dừng lại ở chỗ cho tăng ni sinh chỉ sinh hoạt tại trú xứ, thầy hoạch định chương trình mỗi năm đưa tăng ni sinh tham quan, giao lưu với các tỉnh Phật giáo bạn. Phải nói rằng sự chu đáo của thầy làm cho các tăng ni sinh không khỏi ngạc nhiên. Các vị đâu ngờ rằng vị thầy bận rộn với bao công việc Phật sự lại quan tâm lo lắng tận tình như thế. Từ cái ăn chỗ ở từ lúc đi cho đến khi về đều chu đáo. Tuy nhiên, đó chưa phải là nội dung chính. Mục đích của những chuyến đi là tạo điều kiện cho tăng ni sinh tiếp cận thực tế, được có cơ hội tham quan các danh lam Phật giáo, được đảnh lễ học hỏi chư tôn đức các nơi và học hỏi lẫn nhau với các đồng môn tỉnh bạn. Vừa được tham quan và học tập từ thực tế, vừa có cơ hội để thư giản sau những ngày miệt mài kinh kệ thì niềm vui sướng biết dường nào. Phải nói những chuyến đi như thế thật là hạnh phúc, nhất là đối với tăng ni sinh trẻ tuổi chưa bao giờ có cơ hội tham quan học tập như thế. Thầy thật là tâm lý và tấm lòng thầy cũng thật bao la như đạo hiệu của thầy.
Con chỉ xin được nói ba dấu ấn mà thầy đã để lại trong lòng tăng ni sinh chúng con khi còn ngồi trên ghế lớp Sơ cấp Phật học. Nhớ lại những ngày tháng êm đềm hạnh phúc ấy là nhớ về tuổi thơ tươi đẹp, nhớ về công ơn giáo dưỡng của thầy. Những dấu ấn mà thầy đã để lại trong tâm trí đàn hậu học sẽ không bao giờ phai mờ và khi đủ duyên lành nó sẽ trổ những bông hoa tươi đẹp để đóng góp chút hương thơm cho cuộc đời vốn vô thường này. Xin kính cẩn dâng lên thầy đôi dòng tưởng niệm.

Saturday, October 30, 2010

Vai trò của Phật giáo trong việc giáo dục nhân cách con người ở Thái Lan

Thái Lan là một nước Phật giáo nam truyền có tín đồ chiếm khoảng 95% dân số. Do đó, từ lâu Phật giáo đã trở thành như là quốc giáo trên xứ sở được gọi là “xứ chùa tháp” này. Với vai trò như là quốc giáo, hẳn nhiên Phật giáo phải có những đóng góp xứng đáng cho nền văn hóa dân tộc và nhất là trong nền giáo dục đời sống tâm linh hay tinh thần cho tín đồ của mình. Vậy thì Phật giáo đã sinh hoạt như thế nào để có thể hòa nhập và phát triển trong lòng dân tộc Thái cũng như góp phần tạo nên nhân cách người Thái lịch sự, và hiền hòa đáng được ghi nhận như hiện nay.

Như chúng ta biết, nhân cách con người được hình thành ngoài yếu tố chính là tự thân của chủ thể thì yếu tố khách quan đóng vai trò không ít quan trọng. Có thể nói rằng yếu tố khách quan có ảnh hưởng rất lớn trong quá trình tạo nên nhân cách con người và nó được biết qua các mối quan hệ cơ bản là xã hội, nhà trường, và gia đình. Thông qua các mối quan hệ này, giáo lý Phật đà được áp dụng vào nhằm góp phần xây dựng một xã hội văn minh mang đậm nét đạo đức truyền thống Phật giáo nam truyền. Sự sáng suốt áp dụng Phật giáo vào các lãnh vực đời sống xã hội đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực trong việc giáo dục nhân cách con người và điều đó cũng khẳng định được vai trò cần thiết của đạo Phật trong đời sống tâm linh của con người. Sự đóng góp của Phật giáo trải rộng rất nhiều lãnh vực, do đó, ba yến tố nền tảng được chọn giới thiệu dưới đây như là sự tham khảo.

Ngôi chùa là biểu tượng cho nếp sống tâm linh chung của cộng đồng

Đối với dân Thái, ngôi chùa là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh chung của cộng đồng. Do đó, mọi người dân đều biết nghĩa vụ đóng góp xây dựng để cho ngôi chùa nơi họ sinh hoạt trang nghiêm và thanh tịnh. Điều này được chứng minh qua hình ảnh các ngôi chùa nguy nga, rộng lớn với những nét kiến trúc đặc trưng của Thái nhằm phục vụ nhu cầu của tín đồ Phật tử từ khi sinh ra cho đến khi mãn phần. Hầu như sự kiện quan trọng nào trong đời sống của người dân đều diễn ra tại ngôi chùa. Ngôi chùa lúc nào cũng được đặt lên hàng đầu cho dù khi cuộc sống gia đình của tín đồ gặp bận rộn.

Để cho ngôi chùa có hồn thì chư Tăng là thành phần không thể thiếu. Quý sư ở Thái sống hoàn toàn phụ thuộc vào sự cúng dường của tín đồ thông qua hình thức ‘dâng bát’ mỗi buổi sáng khi quý sư đi khất thực hay thỉnh thoảng dâng cúng ở chùa. Sự cúng dường này được tín đồ Phật tử xem như là bổn phận thiêng liêng và là việc làm được nhiều phước báo theo truyền thống nam truyền nói chung và Phật tử Thái nói riêng. Hơn nữa, những ngày lễ lớn của Phật giáo hay của dân tộc Thái đều có tổ chức ở chùa với sự tham dự của chư tăng và tín đồ. Thông qua những hình thức sinh hoạt này, giáo lý Phật giáo trở nên sống động và đi vào tâm trí tín đồ một cách có ý thức. Có lẽ đây là hình thức thân giáo hiệu quả và phát huy rõ ràng ở các nước nam truyền. Sự sinh hoạt mang tính cộng đồng được thực hiện ở nơi biểu trưng cho văn hóa tâm linh – ngôi chùa – có tác động tốt đến tư duy hành vi của tín đồ. Sinh hoạt này có ý nghĩa khuyến khích tín đồ biết giữ gìn văn hóa và nhắc nhở những ai vô tình hay cố ý đi lệch truyền thống văn hóa ấy.

Những hành động dường như rất bình thường nhưng phản ảnh ý thức giữ gìn văn hóa dân tộc rất cao. Ở Thái, Phật tử không được ngồi ăn chung với quý sư. Nếu như ai đó không biết hay cố ý vi phạm điều này thì sẽ có người đến nhắc nhở ngay. Một điều khác cũng rất thú vị nữa là người nữ không được chạm vào áo của quý sư. Nếu có người nữ nào đứng gần hay vô tình chạm đến thì tự động có người nhắc nhở cho dù người nữ đó là người ngoại quốc. Ở đây, nếu chúng ta nhìn ở góc độ ý thức bảo vệ văn hóa và khuyến khích người bảo vệ thì ta thấy được hiệu quả giáo dục khá cao mà Phật giáo đã đem lại cho người dân Thái. Từ đó, chúng ta có thể suy rộng ra những lĩnh vực khác có liên quan đến đời sống đạo đức của con người.

Trường học là nơi giáo dục đạo đức

Sự ý thức bảo vệ và phát huy truyền thống văn hóa một phần lớn bắt nguồn từ sự giáo dục mà học đường là nơi đóng góp đáng kể. Cho nên, trường học trở thành nơi vừa dạy văn hóa mà cũng là nơi rèn luyện đạo đức và ý thức xã hội cho các thế hệ. Với vai trò quan trọng mà xã hội đã giao phó, các trường học ắt phải được đưa vào dạy các chương trình đạo đức phù hợp và có tính lâu dài. Trường hợp ở Thái Lan, chương trình đạo đức Phật giáo được ưu tiên áp dụng vì tính khả thi và vượt trội của nó chứ không phải chỉ là áp đặt theo cảm tính.

Cũng như những nơi khác, hệ thống trường học được thành lập rải đều khắp nơi phù hợp với mật độ dân số. Điều đáng nói là các trường tiểu học và phổ thông hầu như được xây dựng bên cạnh những ngôi chùa thuộc công viên đất chùa, và được quản lý chặt chẽ bởi ngành giáo dục. Chủ đích này cho thấy rằng giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ được đặt lên hàng đầu và đạo đức Phật giáo vốn từ bi và nhân bản được chọn làm môn học nền tảng để giảng dạy tại tất cả các trường này. Ngay từ cấp tiểu học, học sinh đã thấm nhuần tư tưởng từ bi, hiếu hòa qua những giáo lý cơ bản của đức Phật. Khi vào trường đại học, hạnh kiểm đạo đức là một trong những tiêu chuẩn quan trọng quyết định cho phép sinh viên được tiếp tục sự học vấn của họ. Nhờ sự giáo dục này mà tất cả Phật tử Thái đều thuộc danh hiệu đức Phật, biết những lời kinh hướng dẫn quay về nương tựa tam bảo, hiểu những giới căn bản của người cư sĩ tại gia và những lời kinh cầu phúc hằng ngày để có thể áp dụng những lời dạy ấy vào cuộc sống hằng ngày của họ. Từ đó, nhân cách con người từng bước cũng được hình thành và phát triển. Có thể nói đây là một thành công của nền giáo dục khi biết ứng dụng những lời dạy về đạo đức của đức Phật đưa vào học đường để giảng dạy cho con em họ.

Cũng cần nên nhắc lại rằng, hình thức giáo dục này đã từng tồn tại ở miền nam Việt Nam trước năm 1975. Với hệ thống ‘Tư Thục Bồ Đề’, do nhà chùa phụ trách đã đóng góp không nhỏ trong việc giáo dục thế hệ trẻ về đạo đức. Đáng tiếc là hình thức này sau đó không được thừa nhận và bị chìm vào quên lãng cho đến ngày nay.

Gia đình là nơi nuôi dưỡng đạo đức

Nếu như nhà trường là nơi giáo dục và rèn luyện đạo đức thì gia đình lại là nơi nuôi dưỡng đạo đức tốt nhất. Như một hạt giống được gieo trồng xuống đất, những điều kiện như chăm sóc, tới tẩm giúp cho cây phát triển tốt nhưng yếu tố trực tiếp nuôi dưỡng phải là đất. Cũng vậy, nhà trường và xã hội có thể giáo dục cho con người phương thức phát triển nhân cách nhưng chính gia đình mới đóng vai trò quan trọng để nuôi dưỡng nhân cách ấy tồn tại lâu dài. Thông qua hành vi của từng cá nhân trong gia đình, người ta có thể đánh giá được một gia đình có văn hóa và an lạc.

Với truyền thống gia đình Thái rất được chú trọng xưa nay, việc tôn kính kẻ trên người trước rất nghiêm khắc. Mỗi thành viên trong gia đình tùy theo địa vị lớn nhỏ đều được dạy rất cụ thể. Những cung cách cúi đầu xá mức độ cao thấp, cách thức quỳ gối khi lễ ông bà cha mẹ, cách cúi đầu khi đi ngang qua người lớn …được dạy rất kỹ ở nhà trường cũng như trong gia đình và gia đình là nơi để thực hành trọn vẹn nhất. Người lớn luôn là tấm gương cho thế hệ sau noi theo nên họ đóng vai trò rất quan trọng trong gia đình. Với những điều đạo đức học được từ Phật giáo và từ truyền thống tốt đẹp, các thành viên trong gia đình đã áp dụng và chỉ bảo nhau cùng thực hành nhằm bảo vệ tốt những giá trị ấy.

Mặc dù truyền thống gia đình Thái rất lễ nghi nhưng cá nhân luôn được coi trọng ngay từ khi còn nhỏ. Biểu hiện của sự coi trọng là người lớn luôn quan tâm và dạy các thế hệ con cháu được phép tham gia các sinh hoạt mà chúng nên biết để thực hành. Những hành vi này đôi khi chúng ta xem thường nhưng chúng lại có ảnh hưởng và góp phần rất lớn trong việc hình thành nhân cách các thế hệ sau. Theo truyền thống Phật giáo thì Phật tử đều phải biết danh hiệu Phật và những giáo lý căn bản. Khi người lớn thực hành, họ thường dạy con cháu tập làm theo. Những việc làm như tập con biết chắp tay lễ Phật khi còn rất nhỏ, biết niệm danh hiệu đức Phật, biết chào các sư, chào các bậc lớn tuổi…được các bậc cha mẹ rất quan tâm chỉ dạy. Ở Thái, việc cúng dường thường xuyên được tổ chức. Khi cúng dường, nhận phước báo hay dâng hương … thì tất cả con cháu đều được tham gia như người lớn tức là cũng được trực tiếp cùng dâng phẩm vật, dâng hương, hay nhận ‘nước phước’ (nước sau khi đã tụng kinh mà ở Việt Nam hay gọi là nước cam lộ). Những việc làm trên là sự giáo dục thế hệ trẻ một cách cụ thể qua việc làm cụ thể. Sự giáo dục như thế sẽ có hiệu quả gấp nhiều lần so với sự giáo dục lý thuyết suông. Đó là lý do tại sao chúng ta thấy giới trẻ ở Thái Lan ngoan hơn nhiều nơi khác trong đó có Việt Nam.

Đạo Phật từ khi được khai sáng đến ngày nay đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho nhân loại và được công nhận là tôn giáo của hòa bình và đạo đức tâm linh. Sự nhận xét ấy phản ảnh giá trị thiết thực của đạo Phật đã lan rộng khắp thế giới. Do đó, việc áp dụng đạo Phật vào cuộc sống của tín đồ sẽ đem lại nhiều lợi ích nhất là về mặt đạo đức và tâm linh. Thái Lan được may mắn thừa hưởng một nền đạo đức Phật giáo và biết áp dụng để xây dựng đất nước và con người hòa bình, hạnh phúc. Điều đó cũng nói lên được giá trị thiết thực cũng như vai trò cần thiết của đạo Phật trong cuộc sống nhân loại. Ở đâu đạo Phật được áp dụng ở đó sẽ có hạnh phúc và an lạc. Hy vọng trong thế kỷ 21 này khi mà những cuộc khủng hoảng về nhiều mặt đang diễn ra nghiêm trọng thì việc áp dụng Phật giáo vào cuộc sống càng được mọi người quan tâm nhiều hơn.

Friday, October 1, 2010

Sao lại háo danh

Trong thời đại nào, háo danh cũng trở thành một hiện tượng mà nhiều người theo đuổi nhưng cũng bị nhiều người chỉ trích, lên án. Dù rằng, xã hội luôn phê phán bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, mạnh mẽ hay tế nhị căn bịnh di căn này nhưng xem ra nó đâu dễ dàng thuyên giảm, lắm khi còn nhiễm nặng thêm. Thế thì, nhân tố nào làm chất liệu dinh dưỡng để nuôi nó, làm cho nó không thể bớt đi mà lại tăng thêm. Phải chăng là xã hội không có thuốc thích hợp cho ‘tật này’ hay là ngừơi ta không thích sử dụng hay thậm chí dại gì sử dụng. Vậy là, không phải là không có thuốc mà là vì thuốc có mà những đứa con ‘nhõng nhẽo’ không thích uống và cha mẹ chúng cũng không nỡ trách phạt chúng. Chỉ có những bạn bè chúng đôi khi vì ganh tỵ, khó chịu hay thương hại mà lên tiếng thôi. Chất liệu nuôi dưỡng nó là gì mà làm cho nó luôn lớn mạnh như thế và nó có tác hại gì đến môi trường xung quanh chăng?!

Bản năng con người luôn đòi hỏi thỏa mãn theo nhu cầu tự nhiên và xã hội của nó. Nhu cầu tự nhiên là cái có thể thấy được và hạn lượng được. Vì nó hữu hình nên người ta có thể biết được mức độ tối đa của nó. Ngược lại, nhu cầu mang tính xã hội lại là cái vô hình nên nó không tính đếm được dù rằng người ta vẫn có thể nhận ra nó. Mà ai cũng biết, hễ cái gì hư hư thật thật thì dễ làm người ta tham đắm vào nó. Huống chi cái hư hư thật thật này lại làm cho con người có cảm giác hân hoan và bay bỗng thì tham đắm là điều mấy ai tránh khỏi. Vậy thì háo danh làm người ta bay bỗng chăng?! Câu trả lời chắc ai cũng có thể đoán ra nhỉ! Vì rằng, có danh thì trước nhất và trên hết là được nhiều người khen ngợi và ca tụng cơ mà. Nhiều người không màn đến danh ấy là thật hay giả, là hữu ích hay là rỗng không, cứ hễ có danh thì nghiễm nhiên đòi hỏi phải được ca ngợi, kính trọng. Cái áo khoác ‘danh’ có phép thuật như thế thì làm sao mà không mê hoặc nhiều người nhất là trong một môi trường đa số thích khoác cái áo ấy. Trừ phi họ là những người chân chính thì may ra không bị ma thuật ‘danh’ mê ám.

Cái hấp dẫn cao hơn của danh là nó mang lại lợi cho người mê nó. Cái lợi không phải chỉ là vật chất mà nó ẩn hiện trong muôn hình vạn trạng. Cái lợi vật chất là dành cho những người thiếu nó và cần nó, trong khi cái lợi khác thì cao cấp hơn, tế nhị hơn nên chỉ dành cho những bậc dư ăn, dư mặc. Cái lợi ấy là được ăn trên ngồi trước, đi sau về trước, đi đâu cũng tiền hô hậu ủng, và vô vàn hình thức khác. Cái lợi ấy không chỉ người mang danh thừa hưởng mà trong nhiều trường hợp cả gia đình, dòng họ cùng hưởng nữa chứ. Chính cái hấp lực ấy cũng góp phần tác động đến nhu cầu tìm danh của không ít người trong xã hội.

Hình trạng của ‘sự háo danh’ biểu hiện thế nào và có tác hại ra sao? Ta hãy quan sát những điều hiện thực xảy ra trong xã hội được phơi bày trên các phương tiện truyền thông, hay thông qua các hội nghị, đại hội, lễ nghi, và rất nhiều kênh khác nữa sẽ thấy bóng dáng của nó. Đời xưa, người ta mua chức, mua quan để bóc lột thiên hạ thì đời nay cũng không phải là hiếm thấy. Ngày xưa, người ta mua bằng cấp để khoe khoan thì ngày nay nguời ta mua bằng cốt không phải để khoe khoan mà quan trọng là để hợp thức hóa địa vị đang có hay tìm cơ hội thăng chức. Dẫu biết rằng đó là hành vi bất chánh, nhưng có mấy người thắng được lương tâm, thắng được sự áp lực của môi truờng xung quanh đầy khắc nghiệt. Sự khó khăn âu cũng tại môi trường!

Nhưng mà, bằng cấp chỉ là cơ hội để có địa vị và chức tước. Bằng cấp cao chức tước sẽ càng nhiều. Rất nhiều người có hàng chục chức danh, đọc cho hết cũng mất gần vài phút. Thì ra, họ xuất sắc vô cùng. Vừa là chủ tịch tỉnh, vừa kiêm hiệu trưởng; vừa làm giáo sư, vừa là nhà chính trị thiên tài? Bao chức tước họ sẵn sàng ôm ẵm hết, vì họ cho rằng không ai đủ khả năng. Thế rồi, khi có họp hay lễ lộc gì đó, họ được mời đến dự cho oai. Chức tước bao nhiêu cứ giới thiệu hết một lần, dẫu ai chờ ai đợi mặc người ta. Khổ nỗi, có những chức không hề cần trong buổi họp hay buổi lễ, mà sao phải bắt giới thiệu hoài cho tốn thời gian. Nhưng, nếu giới thiệu thiếu một chức là bề trên sẽ tỏ ra giận dữ, nặng thì ra tay ngay, mà nhẹ thì sẽ bị khiển trách, nhắc nhở lần sau xin chừa nhé. Vậy là, đố ai dám cắt ‘danh’ ông, thà rằng (giới thiệu) dư dã hơn là bị la và bị mất chức nữa là khác.

Vậy đấy, hành trạng của ‘sự háo danh’ ẩn hiện như thế. Như quy luật bất thành văn, nó nghiễm nhiên tồn tại, gây tốn thời gian và công sức của bao người để chỉ vì ca ngợi cái ‘danh’ của một số cá nhân. Mà sao xã hội bây giờ lại thích kính bạch, kính thưa dài dòng như thế. Cái nội dung chính cần làm thì thường bị xem nhẹ qua loa, trong khi cái lễ nghi phụ trợ thì đề cao quá mức. Đành rằng lễ nghi không thể thiếu nhưng đâu thể vì thế mà lạm dụng quá liều. Ôi! biết nói làm sao, thói quen như vậy dễ gì bỏ ngay. Vả lại, không tài thì được cái danh, chứ ai lại nỡ, lại đành tay không.

Tuy nhiên, điều quan trọng là không nên nhầm lẫn và đánh đồng giữa ‘háo danh’ với ‘hữu danh’. Hữu danh là cái mà người ta đổ mồ hôi nước mắt có được, là tài năng thực sự của người đó và được cộng đồng xã hội trân trọng đề cử, tôn vinh. Nó không xuất phát từ bất cứ ý niệm nào về chạy chức tước, địa vị, không vì tiếng khen lợi dưỡng…. Nó là kết quả của một chuỗi nhân duyên tốt đẹp mà người ấy đã cống hiến và đóng góp. Sự vinh danh những người như thế là một sự tôn vinh, khuyến khích học tập hơn là sự khoe khoan, nịnh hót. Những người hữu danh như thế sẽ rất khiêm tốn và biết làm gì với trách nhiệm mà xã hội trân trọng giao cho.

Cuộc sống thì muôn màu muôn vẻ, vàng thau lẫn lộn. Chỉ có điều nên tịnh tâm sáng suốt, dùng kính trí tuệ của mình để thấy rõ thật hư, để phân rõ trắng đen. Có như thế, dẫu vẫn còn trong danh lợi, ta gắng lòng sống với đạo thánh nhân.

Thursday, September 23, 2010

Chuyện vui ngụ ngôn

Chuyện kể: Có một cô bé dễ thương nhiều tài nhưng cũng lắm tật. Cô ta có nhiều bạn bè và bạn bè cô luôn khen ngợi cô hơn là nói về tật của cô. Khi đựơc khen, cô rất tự hào và lấy làm mãn nguyện, và vì thế cô sẵn lòng hào phóng những gì cô có. Cứ sau những dịp được khen như thế thì cô lại lo âu vì phải đối mặt với khó khăn cuộc sống do hậu quả của sự hào phóng của mình. Nhưng cô cũng dễ dàn vuợt qua vì niềm hạnh phúc được khen tặng luôn làm cô bay bỗng. Điều ngạc nhiên là trong đám bạn của cô có anh chàng mắc dịch không chịu khen cô mà hay chê tật xấu của cô. Cô rất tức nhưng không biết làm cách nào trả thù. Thế là cô thừơng tìm cách làm cho anh chàng này tức để hả dạ nhưng cũng không mấy thành công. Rồi một ngày kia, cô đánh liều tới hỏi lý do tại sao anh này vô duyên không khen mà hay chê bai mình. Nhân cơ hội này, anh chàng mới bộc bạch cùng cô.

Anh hỏi: Những lúc cô được khen cô có thấy trên mặt cô hiện lên gì không?

Cô đáp: thì nụ cười vui vẻ, tự hào chứ còn gì.

Anh nói: vâng, nhưng có cái gì đó khác nữa cơ.

Cô hỏi: cái gì?

Anh đáp: tui thấy 2 con mắt của cô to ra, 2 lỗ tai cô căng lên, 2 lỗ mũi của cô phồng thêm. Vì 2 con mắt to, 2 lỗ tai căng và 2 lỗ mũi bự lên nên chúng che lấp làm cho cô không nhìn thấy những kẻ nịnh bợ cô, không nghe những lời ngọt ngào nhưng đầy tính toán và không ngửi được mùi chân thật của bạn bè cô. Tui không khen cô nhiều vì tui sợ mặt cô bị xấu thêm. Trái lại, tui hay chê tật của cô và hay làm cô tức nhưng lúc đó 2 mắt cô nheo lại, 2 tai cô thon thon, 2 mũi cô nhỏ lại. Chính vì thế, mắt cô không bị che khuất và cô có thể thấy được kẻ nịnh người ngay, tai cô phân biệt được tiếng thật lòng và giả dối, mũi cô ngửi mùi biết đâu là bạn thân tình, xã giao.

Cô nghe xong trợn mắt nhìn anh ta một hồi trong cơn tức tức, thế rồi bỗng nhiên cô nở nụ cừơi nhìn anh ta rồi nhẹ nhẹ bứơc đi. Anh chàng thở phào nhẹ nhỏm cũng bước chân đi về.

Wednesday, August 18, 2010

Thái Lan: Đất nước và con người

Thái Lan là một đất nước đa văn hóa với sự pha trộn nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau trong đó Phật giáo chiếm phần lớn. Từ nền văn hóa đa dạng ấy, đặc biệt là giáo lý Phật đà đã sản sinh ra những người dân hiền hòa, lịch sự và yêu chuộng hòa bình. Với những gì nhìn thấy từ thực tế và hiểu biết qua học hỏi, người viết muốn ghi lại một vài suy nghĩ của mình về đất nước này như là một sự tham khảo. Quan điểm ở đây mang tính tương đối trong cái nhìn và hiểu biết giới hạn và mong sẽ có nhiều đóng góp khác hay hơn và đầy đủ hơn của chư thiện hữu.

Cũng như các nước trong khu vực, Thái Lan cũng từng chiến tranh và bị chiến tranh. Tuy nhiên, hòa bình đến với Thái Lan tới nay đã khá lâu. Đó là nhờ chính sách ngoại giao linh động cũng như sự lãnh đạo khôn khéo của nhà nước. Thiên nhiên ở đây cũng khá ưu đãi với vùng đồng bằng rộng lớn phì nhiêu thích hợp cho phát triển nông nghiệp, với khí hậu nhiệt đới ôn hòa quanh năm và tương đối ít bị ảnh hưởng bởi thiên tai so với các nước trong khu vực có biển đông. Tất cả những ưu thế đó tạo cho Thái Lan phát triển tương đối nhanh và là một tiên phong trong khu vực. Thái Lan cũng nổi tiếng là xứ chùa tháp với rất nhiều ngôi chùa trải khắp mọi miền đất nước, đặc biệt là còn khá nhiều khu chùa cổ hàng trăm năm được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Chùa ở Thái mang đặc trưng kiến trúc Thái với màu vàng biểu trưng cho sự linh thiêng của Phật giáo và sự bình an của cuộc sống. Phải chăng vì lí do đó mà hàng năm có rất nhiều du khách khắp nơi trên thế giới đến tham quan và thưởng thức vẻ đẹp và sự thanh bình ở xứ này!?

“Đất lành chim đậu” là trường hợp đúng với Thái Lan cũng như nhiều nước khác. Theo dòng thời gian, có rất nhiều dân tộc từ các nước đến sinh sống và trở thành người Thái bao đời nay. Nhiều nhất phải nói đến là người Hoa với dân số người Thái gốc Hoa hiện nay chiếm gần phân nửa, rồi dòng người từ Ấn Độ, Việt Nam, Cam pu chia, Lào, Miến Điện, Malaysia, …. Mỗi dân tộc mới này đóng góp thêm vào nền văn hóa bản địa những truyền thống mới tạo nên một đất nước Thái đa dạng về tín ngưỡng và tôn giáo. Tuy nhiên, tất cả đều hòa nhập và phát triển trong sự an bình. Người Thái bản xứ mặc dù cùng sống và sinh hoạt chung với cộng đồng các dân tộc khác nhưng ở họ vẫn có nét khác để có thể nhận ra. Đó là vẻ hơi thô về hình dáng nhưng bản chất thì mộc mạc. Phải chăng chính mảnh đất hiền hòa này tạo cho họ tính cách ấy?!

Nói đến Thái Lan mà không nói đến đạo Phật sẽ là một thiếu sót lớn. Đạo Phật theo đoàn người truyền giáo đến các nước châu Á trong đó có Thái Lan từ rất sớm. Với tính ưu việt của giáo lý Phật đà là lòng từ bi và ưa chuộng hòa bình, Phật giáo đã dễ dàng đi vào lòng người Thái và trở thành quốc giáo trong nhiều thời kì. Phật giáo đã ảnh hưởng và đóng góp gì trong xã hội Thái để được chấp nhận và duy trì lâu dài như thế? Đó là câu hỏi thiết thực đặt ra cho tất cả các nước theo truyền thống Phật giáo. Việt Nam cũng từng có một thời Phật giáo vàng son dưới hai triều đại Lý, Trần nhưng sau đó theo dòng lịch sử thăng trầm, Phật giáo đã đánh mất vai trò cho đến ngày nay. Tìm hiểu nguyên nhân thì cũng chính là giải pháp. Có lẽ do nhiều yếu tố từ địa lợi, nhân hòa ...tạo nên nhưng ở đây phải kể đến yếu tố căn bản là đạo Phật, một tôn giáo đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sự ổn định và phát triển xã hội Thái.

Đức Phật đã dạy và để lại cho nhân loại một nền đạo đức Phật giáo từ nhân gian cho đến siêu việt phù hợp với tất cả mọi thành phần xã hội. Thừa hưởng nền đạo đức vô cùng quý giá ấy, đất nước Thái đã đưa giáo dục đạo đức Phật giáo vào tất cả các trường ở mọi cấp học. Đặc biệt, hầu như các ngôi chùa lớn ở Thái đều có trường học bên cạnh để cho các thế hệ con em có cơ hội học cả văn hóa và đạo đức. Như vậy, đạo Phật đã đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục con người, góp phần xã hội hóa giáo dục. Bên cạnh việc trao cho học sinh kiến thức, thầy cô mà quan trọng là các nhà sư trực tiếp dạy các em về những giá trị đạo đức để các em có thể áp dụng vào những tình huống ứng xử trong cuộc sống hằng ngày. Nhờ sự giáo dục liên tục của nhà trường từ các cấp học cộng với sự quan tâm của gia đình và xã hội, tâm tánh người Thái trở nên khá hiền lành. Đạo đức ở Thái được chú trọng trong quá trình học tập và nhất là những kì thi lên các chương trình cao, kết quả đạo đức đóng vai trò rất cần để một sinh viên có thể được chấp nhận hay không. Điều đó làm cho họ ý thức nhiều hơn và nỗ lực trau dồi nhân cách của họ trong cuộc sống thường nhật.

Là một nước đa số theo truyền thống Phật giáo nên ngay khi còn rất nhỏ các em đã được cha mẹ hướng dẫn gần gũi các chùa và học những lễ nghi sơ đẳng. Danh hiệu Đức Phật Thích Ca và bài phát nguyện quy y bằng tiếng Pali hầu như Phật tử đều biết. Người Thái rất kính trọng chư tăng và bất cứ ở đâu, khi thấy chư tăng họ đều kính lễ và nhường chỗ. Trong lòng của mỗi người Thái được gieo hạt giống Phật pháp nên khi gặp chùa hay tượng Phật họ tự động chắp tay xá với lòng cung kính. Với họ, có sự phân biệt rõ ràng giữa chư tăng và Phật tử. Không khi nào Phật tử dám ngồi ăn chung với chư tăng mà thường ăn sau hay ăn ở nơi khác nếu cùng lúc. Người nữ thì không bao giờ dám đụng vào áo vàng của chư tăng, và thường khi họ cúng phẩm vật cho chư tăng đều qua gián tiếp như để trên bàn hay nhờ người nam giúp. Người Thái chú trọng vào niềm tin Phật pháp và với họ thì làm phước để cầu sanh về cảnh an lành là chính yếu. Họ hầu như không có tư tưởng tu để thành Phật như Phật giáo Đại thừa. Tuy nhiên, niềm tin của họ rất mạnh và biết bảo vệ đạo pháp.

Như đã nói, người Thái có niềm tin vào phước báo rất mạnh nên họ rất thích bố thí cúng dường. Nhiều người dù nhà không khá nhưng cũng cố gắng mỗi ngày cúng dường thức ăn vào bát cho chư tăng. Đó là một sự thực tập hằng ngày của họ. Thỉnh thoảng, Phật tử cũng đến chùa tụng kinh tu tập nhất là vào các ngày Bát Quan Trai. Ngoài ra, theo truyền thống Nam tông, tu thiền là phương pháp hành trì chính. Do đó, nhiều trường thiền mở ra và chư tăng Phật tử đều có thể tham gia. Ngày nay, càng có nhiều Phật tử khắp nơi đến tu các khóa thiền, ngay cả những quan chức cấp cao, cảnh sát, nhân viên …cũng tham gia các khóa tu này. Phật tử Thái chú trọng vào sự an lạc hiện tại bằng sự hành trì qua những lời kinh đơn giản dễ hiểu mà không thích lý luận những vấn đề cao siêu. Có lẽ đó cũng là hệ quả tất yếu bởi Thái là một nước Phật giáo Nam truyền vậy.

Trong kinh Du Hành thuộc bộ Trường A Hàm, đức Phật dạy bảy pháp làm cho một quốc gia hưng thịnh và an ổn. Trong đó, bài kinh có đề cập đến những hạnh như hiếu dưỡng cha mẹ, kính thuận sư trưởng, tôn trọng tông miếu, kính nể quỷ thần, thờ kính sa môn, ủng hộ người trì giới tu hành.[1] Những yếu tố vừa nêu được người Thái xem như là bổn phận thiêng liêng của mình. Do đó, cũng không quá ngạc nhiên khi thấy đất Thái hòa bình và phát triển. Kết quả tất yếu ấy sẽ đến với bất cứ nơi đâu mà người dân còn gìn giữ những giá trị ấy. Từ đó chúng ta nhìn và ngẫm nghĩ về xã hội nơi chúng ta đang sống để có thể tìm ra hướng đi thích hợp cho một tương lai phát triển phồn vinh, thịnh vượng và an bình.



[1] Trang chủ. www.quangduc.com/kinhdien/223truongaham02.html. [truy cập ngày 18/12/2007]