Friday, October 19, 2012

Đọc rồi suy nghiệm


 
Ước mơ
 
Chị mua dùm thằng bé mấy tờ vé số. Sau một hồi chọn lựa, chị hỏi nó:
- Nếu cô trúng số con chịu cô mua cho con cái gì?
Nó nhìn chị, xoay qua xoay lại rồi nói:
- Cho con một chiếc xe đạp, có xe đi bán xong con chạy tới trường liền, không bị trễ học nữa.
Di di những ngón chân xuống đất, nó hạ giọng:
- Cho con thêm đôi dép nữa nghe cô, để con đi học.
Dĩ nhiên là chị không trúng số. Tôi lại thấy nó mỗi ngày đi qua nhà với chân trần, đầu không nón...
 
Phấn son
 
Tốt nghiệp đại học, ở lại thành phố đi làm. Tháng rồi, mẹ vào thăm. Mừng và thương. Mẹ khen: "Bạn gái con xinh."
Cuối tháng, lãnh lương. Dẫn người thương đi shopping. Em bảo: "Mỹ phẩm của hãng này là tốt nhất. Những loại rẻ tiền khác đều không nên dùng vì có hại cho da, giống mẹ anh đó, mẹ bị nám hết anh thấy không…"
Chợt giật mình. Mẹ cả đời lam lũ, nắng gió với cái ăn, nào đã biết phấn son màu gì.
 
Nghỉ lễ
 
Cha nó xuôi ngược buôn bán trên chiếc ghe nhỏ để lo cho nó ăn học. Xong đại học, nó ở lại thành phố.
Tết vừa rồi, tiễn nó đi, ông dặn: “Con đi làm, ít về. Cha mẹ nhớ lắm. Nhưng ráng… đến dịp lễ rảnh con về thăm cha mẹ”.
Nó hứa.
Lễ đến, ông hớn hở chờ nó về. Nó điện thoại bảo không về được vì sinh nhật bạn gái.
Nghe xong, ông trầm ngâm, lát sau nói với mẹ nó: “Vậy là tết thằng nhỏ nó mới về. Còn đến bốn tháng nữa…”
 
Ngày cưới của cha
 
Anh hai làm ở thành phố, tổ chức đám  cưới luôn trên ấy. Ba vượt hơn 200 cây số đường quành quả các thứ lo đám cưới cho anh.
Anh kế, rồi đến tôi đám cưới ba lo lắng đến từng chi tiết, cả đến cách lạy, cách đi đứng
như thế nào cho phải đạo...
Mẹ mất sớm, ba sống cô đơn hàng chục năm. Khi các con đã yên bề cả, ba đi thêm bước nữa, ngày cưới của ba, cả ba anh em tôi đều viện cớ vắng mặt...
 
Lòng tin
 
Xe ngừng…
- Mận ngọt đây! ...
- Bao nhiêu tiền bịch mận đó?
- Dạ 2000.
- Hổng có tiền lẻ!
- Để con đổi cho!
Cái bóng nhỏ lao đi. Năm phút, mười phút…
- Trời! Đồ ranh! Nó cầm 5000 của tui đi luôn rồi!
- Ai mà tin cái lũ đó chứ!
- Bà tin người quá! ...
Xe sắp lăn bánh… Cái bóng nhỏ hớt hải:
- Dì ơi! Con gửi ba ngàn. Đợi hoài người ta mới đổi cho
 
Lời hứa
 
Tết, anh chở con đi chơi. Về nhà, thằng bé khoe ầm với lũ bạn cùng xóm. Trong đám trẻ có thằng Linh, nhà nghèo, lặng lẽ nghe với ánh mắt thèm thuồng. Thấy tội, anh nói với nó: “Nếu con ngoan, tết năm sau chú sẽ chở con đi chơi”. Mắt thằng Linh sáng rỡ.
Ngày lại ngày. Cuộc đời lại lặng lẽ trôi theo dòng thời gian.
Thoắt mà đã hết năm. Lại tết. Đang ngồi cụng vài ly với đám bạn thì thằng Linh cứ thập thò. Vẫy tay đuổi, nó đi được một chốc rồi lại lượn lờ. Cáu tiết, anh quát nó. Thằng Linh oà khóc nức nở. Tiếng nó nói lẫn trong tiếng nấc: “Chú hứa chở con đi chơi…cả năm qua con ngoan…không hư một lần nào…”
 
Ba
 
Xưa, nội nghèo, Ba đi ở cho ông bá hộ, chăn trâu để chú được đi học. Thành tài, chú cưới vợ, ra riêng.
Ngày hỏi vợ cho thằng Hai, chú mời mấy người cùng cơ quan. Ai cũng com-lê, cà-ra-vát. Chú bảo: Anh Hai hay đau bao tử, ở nhà nghỉ cho khỏe.
Ba ừ, im lặng vác cày ra đồng. Mồ hôi đổ đầy người.
Cũng những giọt mồ hôi ấy, xưa mặn nồng biết chừng nào, mà giờ, sao nghe chát cả bờ môi.
 
TÌNH BẠN
 
Hai người đi trên con đường vắng vẻ. Đến một đoạn, họ có một cuộc tranh luận khá gay gắt và một người đã không kềm chế được giơ tay tát vào mặt bạn mình. Người kia bị đau nhưng không hề nói một lời. Anh viết trên cát: " Hôm nay, người bạn thân nhất của tôi đã tát vào mặt tôi ".
Họ tiếp tục đi, đến một con sông, họ dừng lại và tắm ở đấy. Anh bạn kia không may bị chuột rút và suýt chết đuối, may mà được người bạn cứu. Khi hết hoảng sợ, anh viết lên đá: " Hôm nay, người bạn thân nhất đã cứu sống tôi ".
 Anh bạn kia ngạc nhiên hỏi: "Tại sao khi tôi đánh anh, anh viết lên cát, còn bây giờ anh lại viết trên đá? "
 Mỉm cười, anh trả lời: " Khi một người bạn làm chúng ta đau, chúng ta hãy viết điều gì đó trên cát, gió sẽ thổi bay chúng đi cùng sự tha thứ... Và khi có điều gì đó to lớn xảy ra, chúng ta lên khắc nó lên đá như khắc sâu vào ký ức của trái tim, nơi không ngọn gió nào có thể xóa nhòa được... ".
 .....Hãy học cách viết trên cát và đá ...
 
Khoe
 
Ngày xưa, khi có ai hỏi con: "Bố làm nghề gì ?" .... Bố thấy con không vui và không bao giờ chịu trả lời là bố làm nghề thợ hồ. Bố cố gắng làm việc nhiều hơn để nuôi con ăn học & mong sau này con có được 1 nghề mà mọi người nể trọng trong xã hội. Con thành đạt rồi lấy chồng. Mỗi lần khách đến chơi, câu đầu tiên bố thường nghe con khoe là "Nhà em làm luật sư nên lúc nào cũng bận"
Bố buồn, chỉ ao ước được 1 lần nghe con khoe về nghề của bố ...
 
Chuyện của nội
 
Nhận vé máy bay, cả nhà mừng tíu tít...
Dường như nội cũng mừng lắm. Nội ra vào, hết sờ cái cột, sửa thân bầu, lại bứt mấy đọt mồng tơi nấu canh. Con cháu cười nội lẩm cẩm...
Từ ngày lên máy bay cho đến khi định cư nơi trời Tây, nội luôn săm soi một gói giấy, vẻ quí lắm.
Chiều đông ảm đạm, nội ra đi, tay vẫn nắm chặt cái gói nhỏ. Bố nhẹ nhàng gỡ ra, một cục đất màu nâu rơi xuống, vỡ tan...
 
Nhạt
 
Người đàn bà vội vã ra đi vào một chiều mưa tầm tã.
 Ngày ngày, chỉ còn lại người đàn ông lầm lũi bên xe mì gõ đầu hẻm. Chẳng hiểu vì lý do gì, khách đến ăn ngày một thưa dần rồi vắng hẳn.
 ...Ngày nọ, có người đàn bà sang trọng tìm về con hẻm xưa. Không ai còn nhận ra bà. Người đàn ông và xe mì gõ không còn ở đó nữa. Người ta bảo kể từ cái dạo vợ bỏ đi, mì ông nấu không còn ngon như trước và quá nhạt.
 Nhạt nên người ta không ăn của ông nữa...
...............................................
 
Anh Hai
 
Năm 18 tuổi, anh quyết định nghỉ học đi phụ hồ. Bố Mẹ giận dữ, mắng “ sanh ra.. Giờ cãi lời bố mẹ… phải chi nó ngoan, siêng học như bé Út…”
Anh lặng thinh không nói năng gì… Bố mẹ mắng mãi rồi cũng thôi. Anh đã quyết thế!
Ngày bé Út vào Đại Học, phải xa nhà, lên Thành Phố ở tro. Anh tự ý bán đi con bò sữa – gia tài duy nhất của gia đình, gom tiền đưa cho bé Út. Biết chuyện, bố thở dài, mẹ lặng lẽ, bé Út khóc thút thít… anh cười, “ Út ráng học ngoan…”
Miệt mài 4 năm ĐH, Út tốt nghiệp loại giỏi, được nhận ngay vào công ty nước ngoài, lương khá cao… Út hớn hở đón xe về quê…
Vừa bước vào nhà, Út sững người trước tấm ảnh của anh trên bàn thờ nghi ngút khói… Mẹ khóc, “ Tháng trước, nó bị tai nạn khi đang phụ hồ…lúc hấp hối, biết con đang thi tốt nghiệp, nó dặn đừng nói con biết…”
 
Đưa đón
 
Nội từ quê vào thăm, mang quà quê vào cho cháu, nào là bánh đa gạo nếp, có cả chục trái dừa khô.
Thấy nội lỉnh kỉnh vất vả, con trách bố: Sao không đón nội. Bố bảo: Bận quá.
Ngoại nước ngoài về thăm quê. Các cậu, dì thuê hẳn một xe ôtô đi đón. Bố cũng đóng cửa hàng nghỉ buôn bán vài hôm, để cùng đi đón ngọai. Bố bảo: Ai cũng có mặt, bố không đi ngoại trách.
..............................
 
 
Cua rang muối
 
Khi xưa nhà còn nghèo, mẹ hay mua cua đồng giả làm cua rang muối. Cua đồng cứng nhưng mẹ khéo tay chiên giòn, đủ gia vị nên thật ngon. Thấy các con tranh nhau ăn, mẹ nhường. Các con hỏi, mẹ bảo: răng yếu. Giờ, các con đã lớn, nhà khá hơn, chúng mua cua biển gạch son về rang muối mời mẹ. Các con nói vui:
 - Cua rang muối thật đó mẹ.
 Rồi chúng ăn rất ngon. Riêng  mẹ không hề gắp. Các con hỏi, mẹ cười móm mém:
 - Còn răng đâu mà ăn?!
..........................................
 
Đợi
 
“Mẹ ơi, sao bà hay ngồi ngoài cửa chiều chiều thế mẹ? Bà lãng mạn quá mẹ nhỉ! ” Nó cười tít mắt, tưởng tượng vu vơ ở chân trời nào chả rõ. Mẹ chẳng nói gì, chỉ lặng im, lâu lâu lại ngẩn lên nhìn bà, mắt mẹ thoáng buồn, nó chẳng hiểu vì đâu…
Sau đó nó biết ông khi xưa đi chiến trường không về, bà thì luôn bảo ông “chưa” về nên hay ra ngồi ngoài ngõ đợi.
Có lúc nó dỗi bà, bảo bà không chơi với nó mà cứ ngồi đợi ông “Ông không về đâu, ông chết rồi! ” Nó hét lên giận dữ, khóc thảm thiết. Bà vuốt má nó nựng nịu, rồi cõng nó vào trong.
Mãi sau này, khi bà mất đi, mẹ kể nó nghe rằng: bà muốn đợi ông về, dẫn hồn ông đi kẻo lạc. Bà sợ năm tháng dài, mấy con ngõ trở thành lạ xa.
Nó lặng im thẫn thờ, mắt thả về miên man… thấy nhớ bà vô hạn…
Rồi chiều chiều, cũng tự khi nào không biết, nó ngồi trước hiên nhà, đợi bà ngang qua…
...........................................
 
Xa xứ
 
Em tôi học đến kiệt sức để có một suất du học.
Thư đầu viết: "ở đây, đường phố sạch đẹp, văn minh bỏ xa lắc nước mình…"
Cuối năm viết: "mùa đông bên này tĩnh lặng, tinh khiết như tranh, thích lắm…"
Mùa đông sau viết: "em thèm một chút nắng ấm quê nhà, muốn được đi giữa phố xá bụi bặm, ồn ào, nhớ chợ bến xôn xao lầy lội… Biết bao lần trên phố, em đuổi theo một người châu Á, để hỏi coi có phải người Việt không…"
.................................................. ....
 
Bàn tay
 
Hai đứa cùng trọ học xa nhà, thân nhau. Lần vào quán nước, sợ tôi không đủ tiền trả em lòn tay xuống gầm bàn đưa tôi ít tiền. Vô tình đụng tay em... Mềm mại.
Ra trường, hai đứa lấy nhau. Sống chung, em hay than phiền về việc xài phí của tôi. Bận nọ tiền lương vơi quá nửa đem về đưa em... Chợt nhận ra tay em có nhiều vết chai.
Tự trách, mấy lâu mình quá vô tình.
.................................................. ..
 
Ba
 
Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba rồi ba đích thân lên đưa cho tôi. Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo không có xe máy, ba phải đi xe đạp. Chiếc xe gầy giống ba…
Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi:”Có dư đồng nào không con?”. Tôi đáp: “Còn dư bốn ngàn ba ạ”. Ba nói tiếp:”Cho ba bớt hai ngàn, để lát về, xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa”.
Ba về, tôi đứng đó, nước mắt rưng rưng…
...........................................
 
Ăn cơm (Nguyễn Thanh Bình)
 
Thằng Tèo ngồi tiu nghỉu. Tựa lưng vào cây trứng cá bên hông nhà, thỉnh thoảng nó giơ tay gạt nước mắt.
Không biết chuyện gì? Cả buổi sáng nay ba má nó liên hồi ẩu đả. Bỏ ông táo lạnh tanh. Giờ mỗi người mỗi góc.
Rồi cuộc chiến lại tiếp tục. Từ võ ba càng chuyển sang võ miệng. Bỗng má nó lớn giọng                      :
- Ông ăn chả, tôi ăn nem. Mặc xác ông!
Đến đây, cái bao tử thúc giục, Tèo tham chiến :
- Con không thèm ăn thứ đó, con chỉ muốn ăn cơm thôi!
 
 (Quỳnh Châu)
 
 Ba nó bỏ đi lúc nó còn đỏ hỏn. Ngoại và mẹ nuôi nó trong nghèo khó. Đau khổ - Và cả hạnh phúc. Được vài năm, cái đói nghèo cướp mất ngoại. Thiếu hơi bà, nó ngằn ngặt khóc đêm.
Mẹ chỉ ôm nó vào lòng, để tay lên ngực trái dỗ dành : "Ngoại có đi đâu!Ngoại ở đây mà!". Vậy là nó nín.
Rồi mẹ cũng theo bà. Hôm tang mẹ, thấy dì khóc, nó bảo :"Mẹ có đi đâu!Mẹ ở đây mà!" rồi lấy tay đặt lên ngực trái, chỗ trái tim. Nó dỗ thế mà dì chẳng nín, lại ôm nó khóc to hơn.
 
 
Cái bóng (Hải Âu)
 
 Ông luôn phàn nàn về cuộc hôn nhân sắp đặt sẵn mà gia đình dành cho mình. Ông chê bà ít học, chẳng tương xứng với sự lịch lãm của ông. Mọi việc ông thường tự quyết, chẳng coi bà vào đâu. Bà tồn tại bên ông như cái bóng lặng lẽ trong cuộc sống chung có nhiều thăng trầm.
Một ngày, bà nhẹ bỏ ông sau một cơn bạo bệnh. Ông ra vào ngẩn ngơ như thể đang kiếm tìm. Nhà thiếu bà, ông mới thấy rõ những khỏang trống. Ông nhận ra sự lịch lãm cũng chẳng tạo nên được một gia đình nếu thiếu đi sự hy sinh, chịu đựng âm thầm của bà..
 
 
Bố và con (Trần Ninh Bình)
 
Anh phụ trách công việc giao tế ở một công ty, lúc nào cũng tươi tắn, lịch sự và hòa nhã. Sau một ngày làm việc mệt mỏi, buổi tối tắm rửa xong, đang nằm đọc báo trên giường trải drap trắng toát thì con bé bốn tuổi, mồ hôi mồ kê, chân tay lấm láp trèo lên. Anh cau mặt gắt con sao không chịu đi rửa chân tay trước. Con bé mếu máo :" Bố ơi, từ sáng tới giờ bố chưa mi con cái nào!"
 
Cha tôi (Nguyễn Minh Hiếu)
 
 Mẹ bỏ đi theo người khác. Cha ở vậy nuôi chúng tôi. Hơn 20 năm. Tôi và anh Hai đều có gia đình. Ngòai 60, bỗng cha tôi dường như trẻ lại. Ông năng chải chuốt, đi lại và xài tiền nhiều hơn. Chúng tôi nghĩ ông có nhân tình và đối xử có phần nghi ngại. Ông vẫn không nói.
Tôi tìm đến bệnh viện, quyết định cho người tình của cha tôi một trận. Chợt tôi lặng người đi vì người cha đang chăm sóc là mẹ. Thấy tôi, ông gượng nói : "Ba sợ các con còn giận mẹ...".
 
 
Mồ côi (Nguyễn Văn Hùng)
 
Đêm đông, nằm cạnh bố, cu Hải co ro thì thầm : Giá như mẹ đừng "đi xa", thì giờ này con được nằm giữa ấm biết mấy. Chứ có hai bố con mình, ai cũng lạnh.
Bố cu Hải vỗ về con, rồi nói : Con đừng lo, mẹ xa rồi, có dì thay mẹ chăm con. Cu Hải không hiểu nhưng cũng thấy mừng, vì nhà có thêm người đỡ vắng lạnh.
Mùa đông sau, Hải co ro nằm một mình lại nghĩ : Giá như đừng có dì nhỉ thì bây giờ mình đỡ lạnh một bên...
 
 
NGÀY SINH NHẬT ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNGDIỆU AN
 
 Chưa đến ngày sinh nhật, còn đến khoảng hai, ba tháng, vợ đã lo nghĩ đến sinh nhật của chồng, con. Rồi chồng lo sinh nhật của vợ con, và con lo ngày mừng tuổi cho ba mẹ. Duy chỉ một người, không ai lo đến - ông nội già yếu. Và cho đến một ngày - ngày ông nội mất.
Chồng hỏi vợ: Sinh nhật ông ngày nào?
Vợ hỏi lại chồng: Ngày nào là ngày sinh của ông?
Con cái hỏi cha mẹ: Ông sinh ngày tháng nào?
Vậy là cả con, dâu, cháu, chắt phải đi tìm ngày sinh cha ông trong chứng minh nhân dân đề làm bia mộ cho ông.
Đó là ngày sinh nhật đầu tiên và cuối cùng của ông.
 
Lát nữa về (Phạm Thu Hiền)
 
Anh chị lấy nhau được 5 năm. Gia đình bất hòa nhưng có đứa con cũng đỡ phần nào.
Ngày ngày, khi chị đi làm, đứa con nhỏ ba tuổi thường khóc đòi chị. Chị dỗ dành :
- Nín đi con ! Lát mẹ về.
Năm sau, anh chị ly dị. Tòa cho anh nuôi đứa bé. Chị ôm nó khóc. Nó nhìn chị, ngây thơ :
- Nín đi mẹ ! Con đi chơi với ba, lát con về..
 
Con trai (Linh Diệu)
 
Bà Nội sanh mỗi mình bố.
Mẹ cũng chỉ có mỗi Bé thôi. Mẹ sanh phải mổ mà.
Bé đã lên 5, thích em trai lắm. Bố cũng vậy. Bà Nội thì khỏi nói, lúc nào ôm Bé cũng thở dài : Phải chi...
Một hôm Mẹ khóc - Rồi Mẹ nằm vùi, lặng ngắt , xanh xao. Cả nhà tự nhiên im ắng hẳn. Suốt tuần.
Bố với Bà Nội đem về cho Mẹ một chú nhóc thật xinh. Bé thì mê mẩn, nhưng Mẹ chẳng khỏe lên tí nào. Mẹ bảo : Bố đổi em bé bằng trái tim Mẹ đấy!
 
Vòng cẩm thạch (Jang My)
 
Cha kể, cha chỉ ao ước tặng mẹ chiếc vòng cẩm thạch.Tay mẹ trắng nõn nà đeo vòng cẩm thạch rất đẹp. Mỗi khi cha định mua, mẹ cứ tìm mọi cách từ chối, lúc mua sữa, lúc sách vở, lúc tiền trường...Đến khi tay mẹ đen sạm, mẹ vẫn chưa một lần được đeo.
Chị em hùn tiền mua tặng mẹ một chiệc thật đẹp. Mẹ cất kỹ, thỉnh thoảng lại ngắm nghía , cười :
- Mẹ già rồi, tay run lắm, chỉ nhìn thôi cũng thấy vui.
Chị em không ai bảo ai, nước mắt rưng rưng.
 
Cần thiết (T.T)
 
Ngày cô theo gia đình định cư ở nước ngoài, Thầy buồn nhiều vì cảm thấy trống vắng, cô đơn. Nhiều năm trôi qua, Thầy vẫn ngày hai buổi ăn cơm tiệm, một mình một bóng đi về. Đã bao lần cô gợi ý đón Thầy sang, nhưng Thầy nhất quyết từ chối. Cuộc đời thầy gắn bó với trường lớp đã bao năm, làm sao nỡ dứt bỏ.
Một lần gọi điện thoại về thăm, cô dè dặt hỏi : "Anh có cần gì cứ nói, em sẽ gởi về liền". Cười buồn, Thầy ôn tồn đáp : "Anh chỉ cần em".
 
Nuôi mẹ (Nguyễn Thị Thao)
 
Con ở Đức về, giàu có, đón mẹ ra nuôi.Con dâu hồ hởi, cơm quà cho mẹ chu đáo. Giường mẹ màn mới, quạt riêng.
Mẹ như vàng.
 
Chồng biếu mẹ mọi thứ. Thương mẹ, anh hay gần gũi, trò chuyện, lại gởi quà về quê. Vợ nhìn soi mói. Bữa ăn thiếu đậm đà. Tối đến màn chẳng mắc. Lạnh nhạt...
Mẹ thành bạc.
 
Mẹ ốm, nằm một chỗ, khó ăn, khó ngủ, ho... Chồng chăm mẹ. Một mình vất vả mọi việc, vợ bực bội và lạnh lùng : "Xem thế nào đưa mẹ về quê..."
Mẹ thành rác vứt bờ tre.
 
Xót xa
 
Tần tảo dành dụm những đồng tiền lẻ từ mớ rau, củ khoai, con cá con tôm bắt được để gởi lên cho chị Hai ăn học. Tốt nghiệp Đại học Văn hóa – Nghệ thuật – Du lịch, chị Hai ở luôn trên Thành phố làm Phó giám đốc cho một công ty Đầu tư và phát triển Du lịch tại Sài Gòn. Mãi đến hôm nay – dễ chừng gần ba năm – chị Hai mới về. Cả nhà khôn xiết vui mừng. Má lật đật chèo xuồng đến chợ nổi mua đồ về làm bữa cơm thịnh soạn:
 - Tội nghiệp chị Hai tụi bay, hồi giờ có được bữa ăn nào đàng hoàng, tử tế đâu?
 Đang ăn, chị Hai bỗng giật mình, lấy đũa khều một sợi tóc từ trong đĩa lòng xào ra:
 - Ai làm bê bối và cẩu thả thế  này? Kiểu này ở nhà hàng họ đã đổ vào thùng nước cơm! Khách du lịch mà biết, chỉ có nước đóng cửa dẹp tiệm! Sạt nghiệp là cái chắc!
 Nói xong, chị Hai đứng dậy, nhanh chân bước lên nhà trên.
 Từ nãy giờ, má ngồi đó, im lìm như tượng đá. Thằng Út cầm sợi tóc lên săm soi một lúc rồi la to lên, giọng còn ngọng nghịu:
 - Sợi tóc bạc hơn một nửa rồi má ơi!
 
Tô mì
  
Vào một buổi chiều mùa xuân lạnh lẽo, trước cửa quán xuất hiện hai vị khách rất đặc biệt, một người cha và một người con. Nói đặc biệt là bởi vì người cha bị mù. Người con trai đi bên cạnh cẩn mẫn dìu người cha. Cậu con trai trạc mười tám mười chín tuổi, quần áo đơn giản, lộ rõ vẻ nghèo túng, nhưng từ cậu lại toát lên nét trầm tĩnh của người có học, dường như cậu vẫn đang là học sinh..  
Cậu con trai tiến đến trước mặt tôi: "Cho hai bát mì bò!", cậu nói to. Tôi đang định viết hoá đơn, thì cậu ta hướng về phía tôi và xua xua tay. Tôi ngạc nhiên nhìn cậu ta, cậu ta nhoẻn miệng cười biết lỗi, rồi chỉ tay vào bảng giá treo ở trên tường, phía sau lưng tôi, bảo tôi rằng chỉ làm 1 bát mì cho thịt bò, bát kia chỉ cần rắc chút hành là được. Lúc đầu, tôi hơi hoảng, nhưng sau đó chợt hiểu ra ngay. Hoá ra, cậu ta gọi to hai bát mì thịt bò như  vậy là cố tình để cho người cha nghe thấy, thực ra thì tiền không đủ, nhưng lại không muốn cho cha biết. Tôi cười với cậu ta tỏ vẻ hiểu ý.
Nhà bếp nhanh nhẹn bê lên ngay hai bát mì nóng hổi. Cậu con trai chuyển bát mì bò đến trước mặt cha, ân cần chăm sóc: "Cha, có mì rồi, cha ăn đi thôi, cha cẩn thận kẻo nóng đấy ạ!". Rồi cậu ta tự bưng bát mì nước về phía mình. Người cha không vội ăn ngay, ông cầm đũa dò dẫm đưa qua đưa lại trong bát. Mãi lâu sau, ông mới gắp trúng một miếng thịt, vội vàng bỏ miếng thịt vào bát của người con. "Ăn đi con, con ăn nhiều thêm một chút, ăn no rồi học hành chăm chỉ, sắp thi tốt nghiệp rồi, nếu mà thi đỗ đại học, sau này làm người có ích cho xã hội." Người cha nói với giọng hiền từ, đôi mắt tuy mờ đục vô hồn, nhưng trên khuôn mặt đầy nếp nhăn lại sáng lên nụ cười ấm áp. Điều khiến cho tôi ngạc nhiên đó là, cái cậu con trai đó không hề cản trở việc cha gắp thịt cho mình, mà cứ im như thóc đón nhận miếng thịt từ bát của cha, rồi lại lặng lẽ gắp miếng thịt đó trả về.
Cứ lặp đi lặp lại như vậy, dường như thịt trong bát của người cha cứ gắp lại đầy, gắp mãi không hết. "Cái quán này thật tử tế quá, một bát mì mà biết bao nhiêu là thịt." Ông lão cảm động nói. Kẻ đứng ngay bên cạnh là tôi, chợt toát hết cả mồ hôi, trong bát chỉ có vài mẩu thịt tội nghiệp, quắt queo bằng móng tay, lại mỏng chẳng khác gì xác ve. Người con trai nghe vậy vội vàng tiếp lời cha: "Cha à, cha ăn mau ăn đi, bát của con đầy ắp không biết để vào đâu rồi đây này. " "Ừ, ừ, con ăn nhanh lên, ăn mì bò thực ra cũng có chất lắm đấy."
Hành động và lời nói của hai cha con đã làm chúng tôi rất xúc động. Chẳng biết từ khi nào, bà chủ cũng đã ra đứng cạnh tôi, lặng lẽ nhìn hai cha con họ. Vừa lúc đó, cậu Trương đầu bếp bê lên một đĩa thịt bò vừa thái, bà chủ dẩu dẩu môi ra hiệu bảo cậu đặt lên bàn của hai cha con nọ. Cậu con trai ngẩng đầu tròn mắt nhìn một lúc, bàn này chỉ có mỗi hai cha con cậu ngồi, cậu ta vội vàng hỏi lại: "Anh để nhầm bàn rồi thì phải?, chúng tôi không gọi thịt bò." Bà chủ mỉm cười bước lại chỗ họ: "Không nhầm đâu, hôm nay chúng tôi kỉ niệm ngày mở quán, đĩa thịt này là quà biếu khách hàng. " Cậu con trai cười cười, không hỏi gì thêm.
Cậu lại gắp thêm vài miếng thịt vào bát người cha, sau đó, bỏ phần còn thừa vào trong một cái túi nhựa. Chúng tôi cứ im lặng chờ cho hai cha con ăn xong, rồi lại dõi mắt tiễn hai cha con ra khỏ quán. Mãi khi cậu Trương đi thu bát đĩa, đột nhiên kêu lên khe khẽ. Hoá ra, đáy bát của cậu con trai đè lên mấy tờ tiền giấy, vừa đúng giá tiền của một đĩa thịt bò, được viết trên bảng giá của cửa hàng. Cùng lúc, Tôi, bà chủ, và cả cậu Trương chẳng ai nói lên lời, chỉ lặng lẽ thở dài, mỗi người theo đuổi một ý  nghĩ riêng.
 

Ảnh hưởng Phật giáo trong Lễ Tang người Việt


Trong một kiếp người, hầu như ai cũng trải qua những phong tục được gọi là “quan, hôn, tang, tế.” Nếu như ‘quan’ có nghĩa là đánh dấu sự trưởng thành của người nam (theo tục xưa), thì ‘tang’ lại là sự kết thúc một kiếp người và thường biểu hiện qua sự sầu đau, khổ não. Tôn giáo, dù nhất thần, đa thần hay thậm chí vô thần, đều ít nhiều hướng dẫn các cách thức trợ giúp người ra đi và gia quyến của họ. Phật giáo, khi mới thành lập, không hướng dẫn lễ cầu nguyện mà chỉ dạy cách trợ niệm cần thiết để giúp người sắp chết ra đi nhẹ nhàng theo nghiệp; nhưng khi Phật giáo được truyền sang các nước có nền văn hóa Khổng, Lão như ở Trung Quốc, Việt Nam…thì việc cầu nguyện cho người chết trở nên không thể thiếu, đặc biệt là Phật giáo Tịnh độ. Trong bối cảnh hầu hết các chùa ở Việt Nam đều theo tông Tịnh độ và các tín đồ có niềm tin Phật giáo đều mong muốn có nghi lễ cầu nguyện của Phật giáo trong lễ tang của người thân, người viết xin được đề cập về ‘ảnh hưởng Phật giáo trong lễ tang người Việt.’ Trong phạm vi này, bài viết sẽ nêu ra một số ảnh hưởng tích cực cũng như sự hạn chế của Phật giáo trong quá trình thích nghi. Từ đó, một số ý kiến cá nhân đưa ra như là sự tham khảo nhằm khắc phục những điểm bất cập và phát huy vai trò của đạo Phật trong nền văn hóa dân tộc Việt.
Có thể khẳng định rằng đức Phật không dạy một nghi thức cầu nguyện nào về lễ tang, ngoại trừ những bài kinh có nội dung trợ niệm cho người sắp qua đời. Sự thật này được tất cả các truyền thống Phật giáo chấp nhận. Tuy nhiên, các nghi lễ cầu nguyện dành cho lễ tang lại được chư Tổ soạn ra nhằm mục đích phục vụ nhu cầu tín ngưỡng quần chúng và làm phương tiện độ sanh. Tồn tại cùng với nền văn hóa bản địa ở Trung Quốc cũng như Việt Nam, các tôn giáo ngoại nhập buộc phải thích nghi để tồn tại và một trong những thích nghi quan trọng là nghi lễ cầu nguyện. Mặc dù vậy, nghi lễ Phật giáo lại không đóng vai trò nòng cốt trong một lễ tang của tín đồ Phật tử Việt Nam mà nó chỉ chiếm một phần nhỏ quan trọng trong nhiều yếu tố pha trộn bao gồm tôn giáo và tập tục. Vậy thì, ảnh hưởng của Phật giáo trong lễ tang như thế nào?
Về hình thức
Thông thường khi một tín đồ Phật giáo sắp qua đời, họ thường thỉnh tăng ni đến để hộ niệm. Việc làm này là hợp với lời Phật dạy dù cách thức có khác. Tuy nhiên, trường hợp không mời được tăng ni đến thì phần lớn tín đồ không biết cách thức hộ niệm cho người thân của mình. Có thể nói đây là một điều thiếu sót của Phật giáo trong việc hướng dẫn tín đồ Phật tử, và một phần do quan niệm đề cao về năng lực cứu độ của người xuất gia.
Khi một người đã qua đời, công việc đầu tiên người thân chuẩn bị cho lễ tang là xem ngày giờ, thậm chí tuổi tác kỵ, hạp. Công việc này nhiều nơi là do chính tăng ni thực hiện. Sau khi chuẩn bị các thủ tục và vật dụng cần thiết xong, tăng ni được thỉnh đến cử hành lễ nhập liệm. Liệm xong, một án thờ được thiết lập trước quan tài với tấm phủ nghi phía trước (hoặc thêm bức thờ tùy địa phương) có những dòng chữ Hán nói về sự đau buồn và về đạo hiếu, tình nghĩa vợ chồng… Ngoài ra, một lá triệu (còn gọi là minh tinh) và vàng mã cũng được chuẩn bị. Trong thiết trí, một điều không thể thiếu liên quan đến Phật giáo là thiết lập bàn thờ Phật để tụng kinh cầu nguyện.
Như vậy, về hình thức, lễ tang biểu hiện có sự ảnh hưởng của Phật giáo qua ba yếu tố gồm hình tượng Phật hay Bồ tát, sự hiện diện của tăng ni hay cư sĩ Phật tử, và lời kinh Phật được tán tụng. Trong ba yếu tố trên thì sự hiện diện của tăng ni là yếu tố quan trọng nhất biểu hiện sự ảnh hưởng của Phật giáo trong lễ tang. Kế đến là sự có mặt của cư sĩ (khi không có tăng ni) và sau cùng là chỉ có hình tượng Phật hay Bồ tát. Thông thường, hình tượng Phật chỉ được tôn trí khi có sự hiện hiện của tăng ni hay cư sĩ, nên yếu tố con người hành lễ luôn quyết định. Ngoài ra, các yếu tố khác được xem là quan trọng trong lễ tang như chọn ngày giờ tốt, kỵ tuổi tác, mặc đồ tang, đốt vàng mã, khóc than, lễ lạy, v.v…đều là tập tục hay sự ảnh hưởng từ tôn giáo khác. Như vậy, nếu lễ tang không có tăng ni hay cư sĩ đến tụng niệm thì yếu tố Phật giáo hầu như là vắng mặt.
Về nội dung
Một yếu tố quan trọng hơn biểu hiện sự ảnh hưởng tích cực của Phật giáo trong lễ tang là nội dung đóng góp của nó. Khi một người thân qua đời, gia quyến thường bối rối vì một phần bị tình cảm chi phối và một phần do không rành các tập tục quy định. Hơn nữa, sự đau buồn thương tiếc và lòng hiếu thảo hay ân nghĩa luôn thúc giục họ làm điều gì đó hữu ích cho người quá cố, và sự siêu độ hay vãng sanh là điều họ mong muốn. Do đó, tăng ni luôn là điểm đầu tiên họ tìm đến nương nhờ. Sự có mặt của tăng ni và sự hướng dẫn nhiệt tình, khôn khéo của họ sẽ giúp cho gia quyến an ủi phần nào và tạo cho họ cũng như những người xung quanh những hình ảnh đẹp về Phật giáo. Đó là nội dung ‘pháp sinh động’ của đạo Phật đang được tuyên dương.
Trong suốt lễ tang từ khi liệm, cúng cơm cho đến hạ huyệt, nhiều bài kinh được tán tụng để cầu nguyện. Có lẽ không sai khi nói rằng hiếm ai đủ tập trung để nghe và hiểu hết ý nghĩa những lời kinh Phật được trì tụng trong suốt thời gian lễ tang cho dù nó được dịch ra tiếng Việt. Huống chi, kinh điển trì tụng thường là âm Hán – Việt và thường tăng ni không giảng giải ý nghĩa trước khi trì tụng. Hiếm lắm mới có trường hợp thuyết linh nhưng đó cũng là chỉ cách ‘chữa lửa’. Do vậy, ảnh hưởng của Phật giáo không phải là do nội dung các bài kinh được tụng mà là ‘những bài pháp sống động’ do chính tăng ni thể hiện qua tam nghiệp của họ. Nếu tam nghiệp thanh tịnh thì họ sẽ cảm hóa được cả người mất lẫn kẻ còn, bằng ngược lại thì hiệu quả khó đoán biết.
Những điều suy ngẫm
Như trên vừa trình bày, ảnh hưởng Phật giáo trong lễ tang chỉ phát huy khi tăng ni hay ít nhất là các cư sĩ trong ban hộ niệm có mặt. Vậy là các lễ tang thiếu hình bóng họ cũng có nghĩa là không có hay có rất ít sự ảnh hưởng của Phật giáo, dù cho gia đình ấy có niềm tin đạo Phật. Rõ ràng, tăng ni không thể nào đủ để đảm trách việc tang ma với số lượng tín đồ Phật tử như hiện nay, và nhất là không thể nào có mặt kịp thời để hộ niệm tất cả tín đồ sắp qua đời. Vả lại, không lẽ sự nghiệp của người xuất gia là chỉ chờ làm công việc ấy sao?! Điều đáng nói nữa là nhiều gia đình mời tăng ni đến nhưng không hoàn toàn tin tưởng năng lực hộ niệm của tăng ni và giáo lý nhân quả của đạo Phật nên họ buộc các tăng ni phải theo giờ giấc khắc khe mà họ đã đi xem trước. Từ đó, mức độ ảnh hưởng của Phật giáo có thể suy biết được.
Lại nữa, chúng ta hay tự hào đạo Phật một thời là quốc giáo và có ảnh hưởng nhiều nhất trong nền văn hóa dân tộc Việt nhưng sự ảnh hưởng của Phật giáo trong nền văn hóa dân tộc lại là điều đáng suy ngẫm. Trong tất cả các lễ hội thì đạo Phật, như một sự mặc định, có sự gắn kết với lễ tang nhiều nhất. Sự mặc định cao đến độ thấy tăng ni đi đến đâu thì người ta thường nghĩ là có người sắp ra đi? Vậy mà, qua lễ tang của tín đồ Phật tử, ta thấy hầu như là các phong tục tập quán, thậm chí là mê tín, vẫn chiếm phần lớn. Đây có phải là điều đáng suy ngẫm chăng?!
Giải pháp nào
Đạo Phật vốn độ sanh chứ không phải độ tử nhưng ngày này thì kiêm cả hai. Tuy nhiên, cốt tủy của đạo Phật vẫn phải là độ sanh và do đó phải đi theo hướng này. Muốn vậy, Phật giáo cần tập trung chú trọng vào người đang khỏe mạnh để hướng dẫn họ đi đúng chánh pháp hơn là chỉ phục vụ tín ngưỡng. Khi họ có niềm tin kiên cố vào chánh pháp thì tất yếu họ sẽ theo các nghi thức Phật giáo để tổ chức lễ tang mà không phải lo sợ. Một nghi thức Phật giáo cần có để tất cả cư sĩ Phật tử nương theo thực hành khi chưa có hay không có tăng ni. Nó cần có những nội dung hướng dẫn rõ ràng từ cách thức tổ chức đến các kinh trì tụng, bắt đầu từ khi hấp hối cho đến an sàng. Phật giáo thừa sức làm việc này.
Đối với những người chỉ tìm đến đạo Phật khi có hữu sự thì cần thiết phải xác định niềm tin của họ đối với Phật giáo và tăng ni. Một khi đã tin tưởng tăng ni thì nhất thiết phải tuân theo sự hướng dẫn của họ để tổ chức lễ tang. Những người này sẽ trở thành cư sĩ Phật tử tương lai nếu họ thấy được giá trị đạo Phật thông qua phẩm hạnh của tăng ni trong suốt lễ tang. Do vậy, cần phải đào tạo những tăng ni có khả năng và có từ tâm thay vì thực dụng, tức thời. Chưa cần phải thuyết pháp hay, những tăng ni này đã và đang làm công việc hoằng pháp hữu hiệu một cách bất ngờ. Sự ảnh hưởng của Phật giáo trong lễ tang như thế không đáng quý sao!



Hoằng pháp ở những vùng đất mới từ kinh nghiệm tiền nhân


Hầu như ai cũng biết đạo Phật có nguồn gốc từ Ấn Độ và từ quê hương ấy, đạo Phật dần dần được giới thiệu đến các nơi khác. Những nơi đạo Phật đặt chân đến lần đầu tiên, ít nhất theo đạo Phật, là những vùng đất mới. Và Việt Nam là một trong những số đó.
Trước hết, vùng đất mới có thể được hiểu theo hai cách. Đó là nơi xa xôi, hẻo lánh, nơi mới thành lập và ít người biết đến. Nó cũng có thể được hiểu là nơi ta chưa từng đặt chân tới hay chưa từng biết đến cho dù nó ở xa hay gần quanh ta. Trong trường hợp này, vùng đất mới là nơi Phật giáo chưa từng được giới thiệu đến và người dân chưa từng biết đến đạo Phật, hay cụ thể hơn là các tông phái Phật giáo.
Tựa đề ‘Hoằng pháp ở những vùng đất mới’ gợi cho bạn đọc nghĩ về những cơ hội và thách thức mà những nhà truyền đạo, hay hoằng pháp viên theo ngôn ngữ Phật giáo Việt Nam, phải dự tính để tận dụng và đương đầu để giải quyết. Bài viết này không đi vào nội dung cơ hội và thách thức mà trình bày kinh nghiệm hoằng pháp của chư vị tiền nhân và sự nghiệp hoằng pháp hiện tại. Qua đó, chúng ta có thể đối chiếu để rút ra những bài học và bổ sung vào những chỗ khiếm khuyết để xây dựng một chương trình hoằng pháp thích hợp và khả thi cho thời đại hiện nay. Có lẽ, đó cũng là điều đáng nên làm cho Phật giáo.
Theo sử liệu Phật giáo, đạo Phật đã có mặt tại Việt Nam trên dưới 2000 năm. Do đó, trong phạm vi nhỏ này, người viết chỉ sẽ đề cập kinh nghiệm hoằng pháp của tiền nhân trong hai giai đoạn: giai đoạn Phật giáo được giới thiệu vào Việt Nam và giai đoạn thế kỷ 17. Mỗi giai đoạn chỉ đề cập những điểm trọng yếu có liên hệ và ảnh hưởng đến hoằng pháp hiện tại.
Giai đoạn Phật giáo được giới thiệu vào Việt Nam
Trong quyển ‘Việt Nam Phật Giáo Sử Luận’, Giáo sư Nguyễn Lang cho rằng Phật giáo được giới thiệu lần đầu tiên ở Việt Nam là do các thương buôn người Ấn và sau đó mới có các Tăng sĩ Ấn Độ. Giả thuyết này có tính khả thi vì lúc ấy các Tăng sĩ vô sản không thể tự sắm thuyền đi truyền đạo mà chỉ có thể theo các thương buôn – những người đến Việt Nam chỉ vì mục đích buôn bán. Từ đó, có hai giả thuyết đặt ra về sự có mặt của các Tăng sĩ Ấn là họ được các thương buôn mời đi theo đoàn để cầu nguyện cho chuyến đi bình yên;[1] hoặc họ tháp tùng đi theo vừa để cầu nguyện cho đoàn, vừa nhân cơ hội này để truyền bá chánh pháp. Dù là động cơ nào thì sự có mặt của họ tại Việt Nam vào những thế kỷ trước sau Tây Lịch là sự thật.
Cũng theo sử liệu này, các thương buôn người Ấn Độ là những cư sĩ có thực hành Phật giáo đại thừa. Họ tổ chức sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo bao gồm thờ cúng Phật Nhiên Đăng và Bồ tát Quán Thế Âm để che chở an lành ngoài biển khơi, giữ gìn tam quy và năm giới, bố thí cúng dường….[2] Thời ấy, việc đi lại phải nhờ vào gió mùa nên có khi đi về phải mất cả năm trời. Trong thời gian ở lại Việt Nam để buôn bán và chờ đợi, họ có sự trao đổi với người bản xứ và do đó, sinh hoạt của họ dần dần ảnh hưởng đến người Việt. Phật giáo chưa được thuyết giảng bằng lời qua các nhà truyền đạo đã có những bước đầu nảy nở, cho dù mang hình thức tín ngưỡng.
Khi các Tăng sĩ Ấn đến Việt Nam, họ lập am cư ngụ để cầu nguyện cũng như hướng dẫn các thương buôn tu tập và dần dần các người bản xứ tìm đến. Hẳn nhiên, các Tăng sĩ phải học ngôn ngữ Việt để hướng dẫn người Việt. Câu hỏi đặt ra là tại sao họ theo đạo Phật trong khi họ cũng có tín ngưỡng riêng? Những giải thích có thể chấp nhận được như sau. Thứ nhất, Phật giáo tín ngưỡng có sự tương đồng và về nhiều mặt nổi trội hơn tín ngưỡng bản địa.  Ví dụ, đức Phật được xem như là một vị có phép thần thông hiểu rõ lòng người, có tình thương rộng lớn luôn cứu giúp người hiền, không phạt kẻ ác như ông Trời của họ. Thứ hai, những quan niệm về nhân quả thiện ác, luân hồi, từ bi rất hợp với niềm tin và mong muốn của người Việt lúc ấy.[3] Thứ ba và quan trọng nhất là các Tăng sĩ và thương buôn đã đem đến người bản xứ những thứ họ cần.
Từ trường hợp này, chúng ta có thể rút ra ba điểm như sau: sự quan trọng của những người tiền trạm, sự chuẩn bị cơ bản của một người truyền đạo và sự dấn thân của một Tăng sĩ hoằng pháp. Điểm thứ nhất, chính các thương buôn là những người tạo điều kiện thuận lợi (về đời sống và môi trường) cho Tăng sĩ. Thứ hai là việc sử dụng ngôn ngữ và hiểu biết văn hóa Việt. Có lẽ các Tăng sĩ Ấn lúc bấy giờ phải khổ công để học ngôn ngữ. Thứ ba là các Tăng sĩ tự nguyện ở lại truyền đạo nơi vùng đất mới và họ đã sinh sống cùng với người Việt trong một thời gian dài nhất định để cảm hóa người Việt theo Phật giáo.
Giai đoạn thế kỷ 17
Suốt chiều dài lịch sử truyền đạo ở Việt Nam, Phật giáo đã đón tiếp rất nhiều Tăng sĩ người Ấn cũng như người Hoa và nhiều người trong số họ đã đóng góp rất to lớn cho sự hình thành và phát triển đạo Phật Việt Nam. Những người có công giới thiệu và tạo nền tảng cho việc duy trì tông phái Phật giáo vẫn còn ảnh hưởng mạnh hiện nay không thể không kể đến thiền sư Nguyên Thiều Siêu Bạch và thiền sư Minh Hải Pháp Bảo. Cả hai đều là thiền sư người gốc Hoa, thuộc dòng Lâm Tế.
Thiền sư Nguyên Thiều thuộc đời thứ 33 dòng Lâm Tế ở Trung Hoa. Năm 1677, Ngài theo thuyền buôn đến phủ Quy Ninh (Quy Nhơn), Bình Định cư trú. Đến năm 1683 tức 6 năm sau, Ngài lập xong chùa Di Đà Thập Tháp để truyền bá Phật pháp. Sau đó, Ngài ra Thuận Hóa lập chùa Hà Trung, chùa Quốc Ân và tháp Phổ Đồng. Ở đây, Ngài được chúa Nguyễn Phúc Thái kính trọng và thỉnh cầu sang Trung Hoa để thỉnh mời các danh tăng, Phật tượng và pháp khí. Ngài tịch năm 1728, truyền bá Phật pháp tại Việt Nam được 51 năm.[4] Như vậy, Ngài là người đầu tiên giới thiệu dòng thiền Lâm Tế ở Việt Nam. Ngài có rất nhiều đệ tử nên dòng thiền này  được duy trì và truyền bá khắp các tỉnh Trung, Nam bộ cho đến ngày nay.
Thiền sư Minh Hải Pháp Bảo thuộc đời 34 dòng Lâm Tế. Năm 1695, Ngài qua Việt Nam cùng với phái đoàn tăng sĩ do thiền sư Thạch Liêm làm trưởng đoàn theo lời thỉnh cầu của chúa Nguyễn. Sau khi Phật sự tổ chức giới đàn ở Thuận Hóa xong, Ngài và một số đồng môn không về nước mà ở lại Việt Nam để hoằng pháp. Năm 1696, thiền sư đã lập thảo am ở Hội An, sau này trở thành tổ đình Chúc Thánh, để tu tập và truyền đạo. Sau 50 năm hoằng hóa chánh pháp tại Việt Nam, Ngài tịch vào năm 1746. Ngài đã đào tạo một thế hệ đệ tử xuất sắc có thể duy trì và phát triển thiền phái Chúc Thánh rộng khắp Việt Nam và hải ngoại như hiện nay.[5]
Sự nghiệp truyền bá chánh pháp của hai vị thiền sư – tổ sư để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá. Thứ nhất, sự truyền đạo của hai Ngài ở Việt Nam (vùng đất mới đối với hai Ngài)  là hoàn toàn từ tâm nguyện độ sanh, bất vụ lợi. Thứ hai, cả hai Ngài đều xây dựng sự nghiệp bằng sự dấn thân và tài đức do tu tập. Thứ ba, hai Ngài đào tạo thế hệ đệ tử xuất sắc cho tương lai. Do đó, hai Ngài được giới lãnh đạo kính trọng và quần chúng ngưỡng mộ quy tụ về tu học.
Hoằng pháp ngày nay
Sự nghiệp hoằng pháp của Phật giáo Việt Nam hiện nay dựa vào Tăng Ni và cư sĩ nói chung và Ban Hoằng pháp nói riêng. Vì Ban Hoằng pháp được thành lập để chuyên trách về truyền bá chánh pháp nên bài viết chỉ tập trung phân tích cơ cấu và sự hoạt động của ban này trong vai trò hoằng pháp ở những vùng đất mới.
Theo quyết định chuẩn y nhân sự bổ sung Ban Hoằng pháp Trung ương nhiệm kỳ (2007-2012), có tất cả 59 thành viên chính thức và 52 ủy viên dự khuyết.[6] Danh sách này cho thấy hầu hết các ủy viên chính thức và dự khuyết đều là những vị trụ trì hoặc ít nhất có một phận sự khác. Như vậy, chúng ta có thể suy luận rằng mục đích của Ban Hoằng pháp chỉ là giảng dạy giáo lý cho các đạo tràng đã có sẵn và không thể thích hợp hoằng pháp ở vùng đất mới (vì chưa có đạo tràng để giảng và các ủy viên khó lòng mà bỏ bổn tự để dấn thân lâu dài xây dựng đạo tràng vùng đất mới), trừ trường hợp Ban Hoằng pháp có mối quan hệ với các nhà lãnh đạo địa phương để có thể được mời thuyết giảng.
Để khắc phục, Ban Hoằng pháp nhiều năm qua đã nỗ lực đào tạo hàng trăm giảng sư bậc cao và trung để bổ sung đội ngũ giảng sư nhưng cũng chỉ nhằm mục đích thuyết pháp. Trong số những vị này, có nhiều vị chưa trụ trì hay có chức vụ cố định nên đã dấn thân đến những vùng xa xôi và vùng đất mới để hành đạo. Sự dấn thân của họ có thể quy vào hai trường hợp: hoặc có tâm nguyện phục vụ cộng với sự thỉnh mời của tín đồ, hoặc tự thân đến những nơi xa xôi tìm nơi hành đạo. Trường hợp thứ hai hiếm xảy ra vì điều kiện chủ quan lẫn khách quan hiện tại không cho phép.
Về hoạt động, Ban Hoằng pháp chưa có một kế hoặch cụ thể nào cho việc hoằng pháp ở vùng đất mới bao gồm nhân sự, mục đích, phương pháp, v.v... Sự hoạt động của Ban Hoằng pháp hiện tại là hầu như dựa trên tinh thần tự nguyện cá nhân nhằm duy trì và tăng thêm tín đồ ở những nơi Phật giáo đã từng tồn tại hơn là mở rộng và thu nhận tín đồ ở những vùng đất mới. Tóm lại, sự nghiệp hoằng pháp ở những vùng đất mới còn bỏ ngõ.
Những kinh nghiệm tiền nhân và đề xuất
Qua sự trình bày trên, một số kinh nghiệm có thể được rút ra khi hoằng pháp ở những vùng đất mới. Thứ nhất, phải tìm hiểu ngôn ngữ, văn hóa và nhu cầu của người địa phương trước khi tiếp cận, và khi tiếp cận phải tạo cho họ có thiện cảm với Phật giáo (như trường hợp 1). Thứ hai, để gieo trồng những hạt mầm mới thì nhà hoằng pháp phải có kiến thức cần thiết, có trải nghiệm tu tập nhất định, và phải dấn thân sinh hoạt với người bản địa theo kiểu “mưa dầm thấm đất” (như cả hai trường hợp ở trên). Thứ ba, sự đóng góp quan trọng của cư sĩ trong việc phổ biến đạo Phật (trường hợp 1), sự trợ giúp cần thiết của chính quyền địa phương (trường hợp 2), và nhất là của giáo hội Phật giáo trong thời hiện tại.
Để đáp ứng điều kiện trên, Ban Hoằng pháp nên cơ cấu nhân sự theo mô hình 2 thành phần: thành phần chính gồm những vị có chức vụ, đang trụ trì các chùa và đang tham gia thuyết giảng; và thành phần cơ hữu có thể bổ nhiệm đi hoằng pháp khắp nơi gồm những vị tốt nghiệp các lớp giảng sư và những vị có khả năng thuyết giảng bao gồm cư sĩ với điều kiện tất cả phải cam kết theo quy định Ban Hoằng pháp. Theo đó, thành phần chính ngoài phận sự thuyết giảng phải xây dựng chương trình hoằng pháp, đào tạo nhân sự, lập quỹ tài trợ hoằng pháp, và đặc biệt xây dựng chính sách cho các thành viên. Thành phần cơ hữu có trách nhiệm theo sự phân công của ban: hoặc tham gia hoằng pháp ngắn hạn theo đoàn, hoặc dấn thân hoằng pháp ở một nơi xa nào đó theo nhiệm kỳ hay trọn đời. Những vị này phải được hỗ trợ nhất định và nếu không ở trọn đời nơi đó thì khi hoàn tất nhiệm kỳ phải được những quyền lợi ưu tiên cụ thể như bổ nhiệm trụ trì, tham gia công tác, v.v…
Một chương trình như thế xem ra khó thực hiện ngay hiện nay. Tuy nhiên, nếu không sớm thực hiện thì dù đạo Phật được cho là vàng, kim cương nhưng khó tiếp cận thì cũng không bằng đồng, chì, kẽm…được cung cấp khuyến mãi có thể sử dụng ngay. Thiết nghĩ, những người con Phật có tâm hoằng pháp không thể không suy ngẫm.


[1] Nguyễn Lang. Việt Nam Phật Giáo Sử Luận. Nhà xuất bản văn học Hà Nội, 2000, trang 26.
[2] Sđd, tr.44.
[3] Sđd, tr.47-50.
[4] Sđd, tr.586-9. Nguyễn Tài Thư. The History of Buddhism in Vietnam. USA: The Council for Research in Values and Philosophy, 2008, tr. 198.
[5] http://www.lamtechucthanh.com.vn/index.php?cmd=act:tieusu